Đảng Cộng hòa (Republican Party, US)

"Tôi không bắt buộc phải thắng, nhưng tôi buộc phải trung thực. Tôi không bắt buộc phải thành công, nhưng tôi có nghĩa vụ phải sống theo ánh sáng mà tôi có".

- Abraham Lincoln, Tổng thống Mỹ (1861-1865)

Đảng Cộng hòa (Republican Party, US)

Đảng Cộng hòa, Mỹ (tiếng Anh: Republican Party, còn được gọi là Grand Old Party - GOP, 'Đảng Đại Kỳ cựu' hoặc 'Đảng Vĩ đại Kỳ cựu'). Đảng Cộng hòa cùng với Đảng Dân chủ (tiếng Anh: Democratic Party) là hai đảng chính trị lớn trong hệ thống đa đảng của chính trị Mỹ. 

Đảng Cộng hòa được thành lập vào năm 1854 bởi những nhà hoạt động bãi nô, những nhà duy tân, những cựu thành viên của Đảng Whig và Đảng Free Soil. Đảng Cộng hòa nắm quyền lần đầu tiên năm 1860 khi Abraham Lincoln, một cựu đảng viên của Đảng Whig, được bầu làm tổng thống và cầm quyền trong giai đoạn Nội chiến và Thời kỳ tái thiết.

So với Đảng Dân chủ thì Đảng Cộng hòa đã được cho là bảo thủ hơn về mặt xã hội và tự do hơn về mặt kinh tế. Các cuộc thăm dò ý kiến gần đây cho thấy khoảng 20% đến 33% người Mỹ tự nhận là thành viên Đảng Cộng hòa và con số đang có xu hướng gia tăng mạnh.

Liên hệ

I- KHÁI YẾU VỀ ĐẢNG CỘNG HÒA

Đảng Cộng hòa đã bắt đầu thành lập vào cuối thập niên 1840, nhưng mãi đến việc chống đối Đạo luật Kansas-Nebraska thì Đảng Cộng hòa mới thống nhất. 

Đại hội Đảng Cộng hòa chính thức đầu tiên diễn ra vào ngày 06/7/1854 tại Jackson, Michigan. Địa điểm hoạt động ban đầu của Đảng Cộng hòa là tại vùng Đông Bắc và Trung Tây. Đảng Cộng hòa đã nhanh chóng vượt qua Đảng Whig làm đảng chính đối lập Đảng Dân chủ. 

Tư tưởng ban đầu của Đảng Cộng hòa được thể hiện qua khẩu hiệu free labor, free land, free men ("lao động tự do, đất đai miễn phí, con người tự do").

"Free labor" ("lao động tự do") chỉ đến niềm tin vào tầng lớp trung lưu đã rời tầng lớp lao động để tạo ra các doanh nghiệp nhỏ. 

"Free land" ("đất đai miễn phí") chỉ đến các nỗ lực làm thuận tiện các doanh nghiệp này bằng cách phân phát đất đai nhà nước cho người dân. Đảng Cộng hòa mong muốn rằng, sự phát triển này sẽ ngăn chận lại, và cuối cùng bãi bỏ chế độ nô lệ.

Abraham Lincoln nhận được đề cử của Đảng Cộng hòa trong năm 1860 và sau đó thắng cử tổng thống. Đảng Cộng hòa vẫn tham gia trong Liên bang miền Bắc trong thời kỳ Nội chiến và đã quản lý Thời kỳ Tái thiết.

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1864, phần đông các đảng viên Cộng hòa đã thống nhất với các đảng viên Dân chủ ủng hộ cuộc chiến để đề cử Lincoln dưới phiếu của Đảng Liên hiệp Quốc gia. Một phần của các đảng viên Cộng hòa Cấp tiến đã rời khỏi đảng để thành lập Đảng Dân chủ Cấp tiến. Nhóm này chọn John C. Frémont làm ứng cử viên tổng thống trước khi đồng ý rút lui ra khỏi cuộc bầu cử vào tháng 09/1864.

Sự thành công của Đảng Cộng hòa đã tạo ra nhiều bè phái trong đảng trong thập niên 1870. Những người lo ngại với Ulysses S. Grant đã đề cử Horace Greeley làm tổng thống chống đối ông. Phe Stalwarts ủng hộ hệ thống bổng lộc; nhóm Half-Breeds kêu gọi cải tổ ngành dân chính. Nói chung Đảng Cộng hòa ủng hộ tầng lớp thương gia, bảng vị vàng, thuế quan cao, lương hưu cao cho các cựu quân nhân miền Bắc, và việc sáp nhập Hawaii. Các đảng viên Cộng hòa cũng ủng hộ những nhà hoạt động Tin Lành đòi cấm bán rượu. 

Với nền kinh tế miền Bắc sau chiến tranh phát triển mạnh với ngành công nghiệp nặng và nhẹ, xe lửa, mỏ, thành phố tăng trưởng nhanh và nền nông nghiệp giàu có, Đảng Cộng hòa hưởng công trạng và đảy mạnh các chính sách giữ vững tăng trưởng nhanh. Nhưng đến năm 1890, Đảng Cộng hòa đã đồng ý thông qua Đạo luật Chống độc quyền Sherman và Ủy ban Thương mại Liên bang sau khi bị các doanh nhân và nông dân phàn nàn. Thuế quan McKinley trong năm 1890 đã làm tổn hại đảng và đảng Dân chủ đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử giữa kỳ.

Sau hai nhiệm kỳ của tổng thống Dân chủ Grover Cleveland, sự kiện William McKinley thắng cử cuộc bầu cử năm 1896, được xem là sự nổi dậy lại của Đảng Cộng hòa. McKinley hứa hẹn thuế quan cao để chấm dứt sự gian khổ do Khủng hoảng năm 1893 gây ra, và rằng Đảng Cộng hòa sẽ bảo đảm một hệ thống mà tất cả mọi nhóm sẽ có lợi. Đảng Cộng hòa củng cố địa vị đảng của doanh nghiệp, tuy được dịu bớt sau khi Theodore Roosevelt đưa ra các chính sách chống độc quyền. 

Sau này Roosevelt tranh cử dưới đảng Cấp tiến và vận động chống lại William Howard Taft, người kế nhiệm ông. Đảng Cộng hòa giữ chức tổng thống trong thập niên 1920, dưới cương lĩnh chống lại Hội Quốc Liên, thuế quan cao, và ủng hộ các quyền lợi của doanh nghiệp. Warren G. Harding, Calvin Coolidge và Herbert Hoover lần lượt được bầu cử làm tổng thống trong năm 1920, 1924, 1928. Vụ bê bối Teapot Dome đe dọa làm tổn hại đảng nhưng Harding qua đời và Coolidge đổ lỗi vào Harding, và các chống đối bị chia phối vào năm 1924. Các chính sách ủng hộ của doanh nghiệp trong thập niên dường như đã tạo ra một sự giàu có chưa từng thấy cho tới khi Phố Wall bị sụp đổ vào năm 1929, bắt đầu cuộc Đại Khủng hoảng.

Liên minh New Deal của tổng thống Dân chủ Franklin D. Roosevelt thống trị chính trị Mỹ trong ba thập niên kế tiếp, trừ hai nhiệm kỳ của tổng thống Cộng hòa Dwight D. Eisenhower. Người Mỹ gốc Phi bắt đầu ủng hộ Đảng Dân chủ trong thời Roosevelt. Sau khi Roosevelt nhậm chức vào năm 1933, các đạo luật New Deal được nhanh chóng thông qua. 

Trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1934, 10 thượng nghị sĩ cộng hòa bị thất cử, đưa đến một Thượng viện với 25 nghị sĩ Cộng hòa và 71 nghị sĩ Dân chủ. Hạ viện cũng bị chia tương tự. "New Deal thứ nhì" bị các dân biểu và nghị sĩ Cộng hòa chỉ trích nặng, họ ví nó với chiến tranh giai cấp và chủ nghĩa xã hội. Các đảng viên Dân chủ bảo thủ, chủ yếu là từ miền Nam, liên minh với các đảng viên Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Robert Taft để tạo một liên hiệp bảo thủ, và thống trị các vấn đề quốc nội cho đến năm 1964.

Trong hậu phần thế kỷ 20, các tổng thống Cộng hòa Dwight D. Eisenhower, Richard Nixon, Gerald Ford, Ronald Reagan, George H. W. Bush, George W. Bush, và Donald Trump thắng cử. Đảng Cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của dân biểu phụ trách phe thiểu số Newt Gingrich, vận động dưới cương lĩnh Contract with America, giành được đa số ghế trong cả hai viện trong Quốc hội trong cuộc Cách mạng Cộng hòa năm 1994. Đảng Cộng hòa giành vị trí đa số cho đến khi Đảng Dân chủ giành lại vị trí đa số vào cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2006.

Trong thế kỷ 21, Đảng Cộng hòa có cương lĩnh bảo thủ xã hội, chính sách ngoại giao chiến tranh ngăn chận để đánh bại chủ nghĩa khủng bố và xúc tiến dân chủ toàn cầu, một ngành hành pháp mạnh hơn, giảm thuế, quyền sở hữu súng và bớt quy định trong công nghiệp.

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, các ứng cử viên của đảng là thượng nghị sĩ John McCain từ Arizona, cho chức vụ tổng thống và Thống đốc Alaska Sarah Palin cho chức vụ phó tổng thống. Họ bị thượng nghị sĩ Barack Obama và thượng nghị sĩ Joe Biden đánh bại.

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2012, các ứng cử viên của đảng là cựu Thống đốc bang Massachusetts Mitt Romney cho chức vụ tổng thống và dân biểu Hạ viện Mỹ Paul Ryan từ Wisconsin cho chức vụ phó tổng thống. Họ bị đương kim Tổng thống Barack Obama và đương kim Phó tổng thống Joe Biden đánh bại. 

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, các ứng cử viên của đảng là tỷ phú bất động sản Donald Trump từ New York cho chức vụ tổng thống và Thống đốc của bang Indiana Mike Pence cho chức vụ phó tổng thống. Họ đã đánh bại cựu ngoại trưởng Hillary Clinton và thượng nghị sĩ Tim Kaine từ Virginia để dành chiến thắng sít sao một cách bất ngờ, gây rúng động toàn thế giới.

Tính đến năm 2023, GOP chiếm đa số tại Hạ viện Mỹ, 26 thống đốc bang, 28 cơ quan lập pháp bang và 22 cơ quan chính quyền bang. Sáu trong số chín thẩm phán hiện tại của Tòa án Tối cao Mỹ được bổ nhiệm bởi các tổng thống Đảng Cộng hòa.

Ứng cử viên tổng thống gần đây nhất của đảng này là Donald Trump, tổng thống thứ 45 của Mỹ từ năm 2017 đến năm 2021. Đã có 19 tổng thống thuộc Đảng Cộng hòa, nhiều nhất từ bất kỳ một đảng chính trị nào. Đảng Cộng hòa đã giành chiến thắng trong 24 cuộc bầu cử tổng thống, nhiều hơn một so với đối thủ chính trị chính của nó là Đảng Dân chủ.

Xem thêm: Đảng Dân chủ tại Mỹ

II- TÊN VÀ KÝ HIỆU CỦA ĐẢNG CỘNG HÒA

Các thành viên sáng lập đảng đã chọn tên Đảng Cộng hòa vào giữa những năm 1850 để tỏ lòng kính trọng đối với các giá trị của chủ nghĩa cộng hòa được thúc đẩy bởi Đảng Dân chủ-Cộng hòa (Democratic-Republican Party) của Thomas Jefferson mà Jefferson gọi là "Đảng Cộng hòa" (Republican Party). Ý tưởng cho cái tên này xuất phát từ một bài xã luận của nhà báo hàng đầu của đảng, Horace Greeley, người đã kêu gọi "một số cái tên đơn giản như 'Đảng Cộng hòa' sẽ chỉ định phù hợp hơn những người đã đoàn kết để khôi phục Liên minh về đúng vị thế của nó. Sứ mệnh của nhà vô địch và người ban hành Tự do chứ không phải là người tuyên truyền về chế độ nô lệ". Cái tên này phản ánh các giá trị cộng hòa năm 1776 về đạo đức công dân và sự phản đối chế độ quý tộc và tham nhũng. "Cộng hòa" có nhiều ý nghĩa khác nhau trên khắp thế giới, và Đảng Cộng hòa đã phát triển đến mức các ý nghĩa không còn luôn phù hợp nữa. 

Thuật ngữ "Grand Old Party" là biệt danh truyền thống của Đảng Cộng hòa và chữ viết tắt "GOP" là tên gọi thường được sử dụng. Thuật ngữ này bắt nguồn từ năm 1875 trong Hồ sơ Quốc hội, ám chỉ đảng gắn liền với cuộc bảo vệ quân sự thành công của Liên bang là "đảng già dũng cảm này". Năm sau, trong một bài báo trên Cincinnati Commercial, thuật ngữ này đã được sửa đổi thành "bữa tiệc lớn". Việc sử dụng chữ viết tắt đầu tiên là vào năm 1884. 

Linh vật truyền thống của bữa tiệc là con voi. Một bức tranh biếm họa chính trị của Thomas Nast, xuất bản trên tờ Harper's Weekly vào ngày 7 tháng 11 năm 1874, được coi là công dụng quan trọng đầu tiên của biểu tượng này. Một biểu tượng thay thế của Đảng Cộng hòa ở các bang như Indiana, New York và Ohio là con đại bàng hói đối lập với con gà trống của Đảng Dân chủ hay ngôi sao năm cánh của Đảng Dân chủ. Ở Kentucky, căn nhà gỗ là biểu tượng của Đảng Cộng hòa. 

Sau cuộc bầu cử năm 2000, màu đỏ trở nên gắn liền với Đảng Cộng hòa. Trong và sau cuộc bầu cử, các mạng truyền hình lớn đã sử dụng cùng một bảng màu cho bản đồ bầu cử: các bang do ứng cử viên Đảng Cộng hòa George W. Bush giành chiến thắng có màu đỏ và các bang do ứng cử viên Đảng Dân chủ Al Gore giành chiến thắng có màu xanh lam. Do tranh chấp kéo dài nhiều tuần về kết quả bầu cử, những liên tưởng về màu da này đã ăn sâu và tồn tại trong những năm sau đó. Mặc dù việc ấn định màu sắc cho các đảng phái chính trị là không chính thức và không chính thức, nhưng giới truyền thông đã đại diện cho các đảng phái chính trị tương ứng bằng cách sử dụng những màu sắc này. Đảng và các ứng cử viên của nó cũng đã chuyển sang sử dụng màu đỏ. 

Xem thêm: Trước khi họ là Tổng thống Mỹ... họ là Luật sư

III- CÁC PHE PHÁI TRONG ĐẢNG CỘNG HÒA

Trong thế kỷ 21, các phe phái của Đảng Cộng hòa bao gồm những người bảo thủ, những người theo chủ nghĩa trung dung, những người theo chủ nghĩa tự do cánh hữu và những người theo chủ nghĩa dân túy. Có sự chia rẽ đáng kể trong đảng về các vấn đề phá thai, hôn nhân đồng giới và thương mại tự do.

1- Đảng bảo thủ

Kể từ cuộc bầu cử tổng thống của Ronald Reagan năm 1980, chủ nghĩa bảo thủ của Mỹ đã trở thành phe thống trị trong Đảng Cộng hòa. Hầu hết những người bảo thủ hiện đại đều kết hợp việc ủng hộ các chính sách kinh tế thị trường tự do với chủ nghĩa bảo thủ xã hội và cách tiếp cận diều hâu đối với chính sách đối ngoại. Họ thường ủng hộ các chính sách ủng hộ chính phủ hạn chế, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa truyền thống, chủ nghĩa cộng hòa và quyền lực hạn chế của chính phủ liên bang trong mối quan hệ với các bang.

2- Những người theo chủ nghĩa tự do cánh hữu

Đảng Cộng hòa có một phe cánh hữu tự do đáng kể. Phe này của đảng có xu hướng chiếm ưu thế ở vùng Trung Tây và Tây nước Mỹ.

Barry Goldwater có tác động đáng kể đến phong trào bảo thủ-tự do những năm 1960. So với các đảng viên Cộng hòa khác, họ có nhiều khả năng ủng hộ việc hợp pháp hóa cần sa, các quyền của LGBT như hôn nhân đồng giới, quyền sử dụng súng, phản đối giám sát hàng loạt và ủng hộ cải cách luật hiện hành xung quanh việc tịch thu tài sản dân sự. Những người theo chủ nghĩa tự do cánh hữu bị chia rẽ mạnh mẽ về chủ đề phá thai.

Những người theo chủ nghĩa tự do bảo thủ nổi tiếng trong Đảng Cộng hòa bao gồm Rand Paul, Thượng nghị sĩ Mỹ từ Kentucky, Nghị sĩ quận quốc hội thứ 4 của Kentucky Thomas Massie, Thượng nghị sĩ Utah Mike Lee và thượng nghị sĩ Wyoming Cynthia Lummis.

3- Quyền tôn giáo

Các thành viên của quyền tôn giáo thống trị phần lớn đảng ở miền Nam nước Mỹ. Kể từ khi nổi lên quyền của Cơ đốc giáo vào những năm 1970, Đảng Cộng hòa đã thu hút được sự ủng hộ đáng kể từ những người theo chủ nghĩa truyền thống trong Giáo hội Công giáo và những người theo đạo Tin lành một phần do phản đối việc phá thai sau vụ Roe kiện Wade. So với các đảng viên Cộng hòa khác, phe tôn giáo cực hữu trong đảng có nhiều khả năng phản đối quyền LGBT và hợp pháp hóa cần sa hơn. Kể từ Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, cánh hữu Cơ đốc giáo nhìn chung đã ủng hộ mối quan hệ chặt chẽ giữa Mỹ và Israel.

4- Những người theo chủ nghĩa dân túy cánh hữu

Kể từ khi Donald Trump đắc cử, các phe phái trong Đảng Cộng hòa có thể được coi là những người theo chủ nghĩa dân túy cánh hữu. Chủ yếu có trụ sở tại miền Bắc Mỹ, đa số ủng hộ quyền phá thai, hôn nhân đồng giới và chủ nghĩa bảo hộ, đồng thời giữ quan điểm bảo thủ mạnh mẽ về tính đúng đắn chính trị, nhập cư và chủng tộc. "Chủ nghĩa bảo thủ Barstool" đôi khi được mô tả như một hình thức của chủ nghĩa dân túy cánh hữu.

Vai trò của Tiệc trà trong việc mở đường cho phe phái này là một chủ đề tranh luận. So với các đảng viên Cộng hòa khác, phe dân túy cánh hữu có nhiều khả năng phản đối nhập cư hợp pháp, thương mại tự do, chủ nghĩa tân bảo thủ,và luật bảo vệ môi trường. Những ví dụ nổi bật bao gồm Donald Trump, Lauren Boebert, và Marjorie Taylor Greene.

4- Đảng Cộng hòa ôn hòa 

Những người Cộng hòa ôn hòa chủ yếu đến từ vùng Đông Bắc Mỹ. Các đảng viên Cộng hòa ôn hòa đáng chú ý bao gồm thống đốc bang Utah Spencer Cox, thống đốc bang Vermont Phil Scott, cựu thống đốc bang Massachusetts Charlie Baker và cựu thống đốc bang Maryland Larry Hogan.

Xem thêm: Pháp trị tại Công ty Luật TNHH Everest

IV- CHÍNH SÁCH KINH TẾ

Đảng Cộng hòa tin rằng, thị trường tự do và thành tựu cá nhân là những yếu tố chính đằng sau sự thịnh vượng kinh tế. Đảng Cộng hòa thường xuyên ủng hộ chủ nghĩa bảo thủ tài chính trong các chính quyền của Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, họ đã cho thấy, mình sẵn sàng tăng nợ Liên bang khi nắm quyền điều hành chính phủ. Bất chấp cam kết cắt giảm chi tiêu chính phủ, các chính quyền Đảng Cộng hòa, kể từ cuối những năm 1960, đã duy trì hoặc tăng mức chi tiêu chính phủ trước đây. 

1- Thuế

Quan điểm chính sách kinh tế của Đảng Cộng hòa hiện đại, được đo bằng số phiếu trong Quốc hội, có xu hướng phù hợp với lợi ích kinh doanh và người giàu. Những người theo Đảng Cộng hòa hiện đại ủng hộ lý thuyết về kinh tế trọng cung, cho rằng thuế suất thấp hơn sẽ làm tăng tăng trưởng kinh tế. Nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa phản đối mức thuế cao hơn đối với những người có thu nhập cao hơn, họ tin rằng điều này nhắm mục tiêu không công bằng vào những người tạo ra việc làm và của cải. Họ tin rằng chi tiêu tư nhân hiệu quả hơn chi tiêu chính phủ. Các nhà lập pháp Đảng Cộng hòa cũng đã tìm cách hạn chế nguồn tài trợ cho việc thực thi thuế và thu thuế. Ở cấp quốc gia và cấp tiểu bang, đảng Cộng hòa có xu hướng theo đuổi các chính sách cắt giảm thuế và bãi bỏ quy định.

Đảng Cộng hòa tin rằng các cá nhân nên chịu trách nhiệm về hoàn cảnh của chính mình. Họ cũng tin rằng khu vực tư nhân có hiệu quả hơn trong việc giúp đỡ người nghèo thông qua từ thiện so với chính phủ thông qua các chương trình phúc lợi và các chương trình trợ giúp xã hội thường gây ra sự phụ thuộc vào chính phủ. Tính đến tháng 11 năm 2022, tất cả 11 Bang chưa mở rộng Medicaid đều có cơ quan lập pháp cấp bang do Đảng Cộng hòa kiểm soát.

2- Công đoàn lao động và mức lương tối thiểu 

Đảng Cộng hòa tin rằng, các tập đoàn sẽ có thể thiết lập các phương thức tuyển dụng của riêng họ, bao gồm cả phúc lợi và tiền lương, trong khi thị trường tự do quyết định giá cả công việc. Kể từ những năm 1920, Đảng Cộng hòa thường bị các tổ chức và thành viên Liên đoàn lao động phản đối. Ở cấp quốc gia, Đảng Cộng hòa ủng hộ Đạo luật Taft–Hartley năm 1947, cho phép người lao động có quyền không tham gia công đoàn. Đảng Cộng hòa hiện đại ở cấp tiểu bang thường ủng hộ nhiều luật về quyền làm việc khác nhau, trong đó cấm các thỏa thuận an ninh công đoàn yêu cầu tất cả người lao động ở nơi làm việc có công đoàn phải trả phí hoặc phí chia sẻ công bằng, bất kể họ có phải là thành viên của công đoàn hay không.

Hầu hết các đảng viên Đảng Cộng hòa cũng phản đối việc tăng mức lương tối thiểu, tin rằng việc tăng lương như vậy sẽ gây tổn hại cho các doanh nghiệp bằng cách buộc họ phải cắt giảm và thuê ngoài công việc đồng thời chuyển chi phí sang người tiêu dùng.

3- Thương mại quốc tế

Đảng Cộng hòa đã có những quan điểm rất khác nhau về thương mại quốc tế trong suốt lịch sử của mình. Khi mới thành lập, Đảng Cộng hòa ủng hộ thuế quan bảo hộ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1896, tổng thống đảng Cộng hòa William McKinley đã vận động mạnh mẽ về thuế quan cao, là người sáng tạo và trùng tên với Biểu thuế McKinley năm 1890. 

Vào đầu thế kỷ 20, Đảng Cộng hòa bắt đầu chia rẽ về thuế quan, với trận chiến lớn về Đạo luật thuế quan Payne-Aldrich năm 1910 đã chia rẽ đảng và gây ra sự tái tổ chức. Tổng thống Đảng Dân chủ Woodrow Wilson đã cắt giảm lãi suất bằng Biểu thuế Underwood năm 1913 và sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất vào năm 1914 đã sửa đổi hoàn toàn mô hình thương mại do thương mại giảm. Ngoài ra, nguồn thu mới do thuế thu nhập liên bang tạo ra do sửa đổi lần thứ 16 đã khiến thuế quan trở nên ít quan trọng hơn xét về mặt tác động kinh tế và luận điệu chính trị. Khi đảng Cộng hòa quay trở lại nắm quyền vào năm 1921, họ lại áp đặt thuế quan bảo hộ. Họ lại nêu vấn đề này với Đạo luật thuế quan Smoot-Hawley năm 1930 để đối phó với cuộc Đại suy thoái ở Mỹ, nhưng cuộc suy thoái chỉ trở nên tồi tệ hơn và đảng viên Đảng Dân chủ Franklin D. Roosevelt trở thành tổng thống từ năm 1932 đến năm 1945

Đạo luật thuế quan tương hỗ năm 1934 đánh dấu sự khởi đầu rõ ràng khỏi kỷ nguyên chủ nghĩa bảo hộ ở Mỹ. Thuế của Mỹ đối với các sản phẩm nước ngoài đã giảm từ mức trung bình 46% năm 1934 xuống còn 12% vào năm 1962, trong đó có nhiệm kỳ tổng thống của Tổng thống Đảng Cộng hòa Dwight D. Eisenhower. Sau Thế chiến thứ hai, Mỹ thúc đẩy Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) được thành lập vào năm 1947, nhằm giảm thiểu thuế quan và các hạn chế khác, đồng thời tự do hóa thương mại giữa tất cả các nước tư bản. 

Trong chính quyền Reagan và George HW Bush, đảng Cộng hòa đã từ bỏ các chính sách bảo hộ, và phản đối hạn ngạch cũng như ủng hộ GATT và chính sách của Tổ chức Thương mại Thế giới về các rào cản kinh tế tối thiểu đối với thương mại toàn cầu. Thương mại tự do với Canada xuất hiện nhờ Hiệp định Thương mại Tự do Canada-Mỹ năm 1987, dẫn đến Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) vào năm 1994 dựa trên kế hoạch của Reagan nhằm mở rộng phạm vi thị trường cho các công ty Mỹ bao gồm Canada và Mexico. Tổng thống Bill Clinton, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Đảng Cộng hòa vào năm 1993, đã thúc đẩy NAFTA thông qua Quốc hội trước sự phản đối kịch liệt của các liên đoàn lao động. 

Trong thế kỷ 21, các quan điểm về thương mại và chủ nghĩa bảo hộ có sự chia rẽ mạnh mẽ theo quan điểm đảng phái. Năm 2017, chỉ có 36% đảng viên Đảng Cộng hòa đồng ý rằng các hiệp định thương mại tự do là tốt cho Mỹ, so với 67% đảng viên Đảng Dân chủ. Cuộc bầu cử năm 2016 đánh dấu sự khởi đầu của xu hướng quay trở lại chủ nghĩa bảo hộ, một hệ tư tưởng được đưa vào cương lĩnh của tổng thống Đảng Cộng hòa Donald Trump. 

4- Chính sách môi trường

Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa có quan điểm khác nhau về mức độ nghiêm trọng của mối đe dọa do biến đổi khí hậu gây ra, trong khi đánh giá của Đảng Cộng hòa về cơ bản không thay đổi trong thập kỷ qua.

Sự phân chia rõ ràng về sự tồn tại và trách nhiệm đối với hiện tượng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu phần lớn thuộc về đường lối chính trị. Nhìn chung, 60% người Mỹ được khảo sát cho biết các công ty dầu khí "chịu trách nhiệm hoàn toàn hoặc phần lớn" về biến đổi khí hậu.

Ý kiến về nguyên nhân con người gây ra biến đổi khí hậu đã tăng lên đáng kể cùng với sự giáo dục của các đảng viên Đảng Dân chủ, nhưng không phải ở các đảng viên Đảng Cộng hòa. Ngược lại, ý kiến ủng hộ việc trung hòa carbon lại giảm đáng kể theo độ tuổi ở các đảng viên Đảng Cộng hòa, nhưng không giảm ở các đảng viên Đảng Dân chủ.

Một loạt các chính sách nhằm giảm phát thải khí nhà kính đã được đề xuất, nhưng sự ủng hộ của Đảng Cộng hòa đối với các chính sách đó luôn thấp hơn. 

Sự chấp nhận các cơ sở năng lượng gió và mặt trời trong cộng đồng của một người mạnh mẽ hơn ở các đảng viên Đảng Dân chủ (màu xanh), trong khi sự chấp nhận các nhà máy điện hạt nhân mạnh mẽ hơn ở các đảng viên Đảng Cộng hòa (màu đỏ).

Đảng Cộng hòa bác bỏ chính sách giới hạn và thương mại để hạn chế lượng khí thải carbon. Vào những năm 2000, Thượng nghị sĩ John McCain đã đề xuất các dự luật (chẳng hạn như Đạo luật Quản lý Khí hậu McCain-Lieberman ) sẽ điều chỉnh lượng khí thải carbon, nhưng quan điểm của ông về biến đổi khí hậu là không bình thường đối với các đảng viên cấp cao. Một số ứng cử viên Đảng Cộng hòa đã ủng hộ việc phát triển các nhiên liệu thay thế nhằm đạt được sự độc lập về năng lượng cho Mỹ. Một số đảng viên Cộng hòa ủng hộ việc tăng cường khoan dầu ở các khu vực được bảo vệ như Khu bảo tồn động vật hoang dã quốc gia Bắc Cực, một quan điểm đã thu hút sự chỉ trích từ các nhà hoạt động.

Nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa trong nhiệm kỳ tổng thống của Barack Obama đã phản đối các quy định mới về môi trường của chính quyền ông, chẳng hạn như các quy định về lượng khí thải carbon từ than đá. Đặc biệt, nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa ủng hộ việc xây dựng Đường ống Keystone ; Quan điểm này được các doanh nghiệp ủng hộ nhưng lại bị các nhóm người bản địa và các nhà hoạt động môi trường phản đối. 

5- Chăm sóc sức khỏe

Đảng phản đối hệ thống chăm sóc sức khỏe một người trả tiền, mô tả nó như một loại thuốc xã hội hóa. Đảng Cộng hòa có thành tích hỗn hợp ủng hộ các chương trình An sinh xã hội, Medicare và Medicaid phổ biến trong lịch sử, và phản đối Đạo luật Chăm sóc Giá cả phải chăng và việc mở rộng Medicaid. Trong lịch sử, có nhiều quan điểm đa dạng và chồng chéo trong cả Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ về vai trò của chính phủ trong chăm sóc sức khỏe, nhưng hai đảng đã trở nên phân cực cao về chủ đề này trong giai đoạn 2008-2009 trở đi.

Cả Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đều đưa ra nhiều đề xuất khác nhau nhằm thiết lập bảo hiểm y tế cho người cao tuổi do liên bang tài trợ trước nỗ lực của lưỡng đảng nhằm thành lập Medicare và Medicaid vào năm 1965. Đảng Cộng hòa phản đối Đạo luật Chăm sóc Giá cả phải chăng, không có thành viên Đảng Cộng hòa nào ủng hộ. Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua đạo luật này vào năm 2009 và những nỗ lực tiếp theo của đảng Cộng hòa nhằm bãi bỏ đạo luật này. Ở cấp tiểu bang, đảng có xu hướng giữ quan điểm chống lại việc mở rộng Medicaid.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

V- CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

Đảng Cộng hòa có lịch sử hoài nghi và phản đối chủ nghĩa đa phương trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Chủ nghĩa tân bảo thủ, ủng hộ chủ nghĩa đơn phương và nhấn mạnh việc sử dụng vũ lực và thái độ diều hâu trong chính sách đối ngoại của Mỹ, là một xu hướng nổi bật trong tư duy chính sách đối ngoại trong tất cả các chính quyền tổng thống của Đảng Cộng hòa kể từ nhiệm kỳ tổng thống của Ronald Reagan. Một số, bao gồm cả những người theo chủ nghĩa cổ sinh bảo thủ, kêu gọi chủ nghĩa không can thiệp và chính sách đối ngoại Nước Mỹ trên hết. Phe này đã có được sức mạnh bắt đầu từ năm 2016 với sự nổi lên của Donald Trump, yêu cầu Mỹ thiết lập lại chính sách đối ngoại can thiệp trước đây và khuyến khích các đồng minh, đối tác chịu trách nhiệm lớn hơn.

1- Chiến tranh chống khủng bố

Kể từ vụ tấn công khủng bố ngày 11/09/2001, nhiều trong đảng đã ủng hộ các chính sách tân bảo thủ liên quan đến Cuộc chiến chống khủng bố, bao gồm Chiến tranh ở Afghanistan và Chiến tranh Iraq. Chính quyền George W. Bush cho rằng Công ước Geneva không áp dụng đối với những chiến binh bất hợp pháp, trong khi những đảng viên Cộng hòa nổi tiếng khác, chẳng hạn như Ted Cruz, phản đối mạnh mẽ việc sử dụng các kỹ thuật thẩm vấn nâng cao mà họ coi là tra tấn. 

2- Viện trợ nước ngoài

Đảng Cộng hòa thường xuyên ủng hộ việc hạn chế viện trợ nước ngoài như một biện pháp khẳng định an ninh quốc gia và lợi ích nhập cư của Mỹ. 

3- Quan hệ đối ngoại

Đảng Cộng hòa nhìn chung ủng hộ một liên minh mạnh mẽ với Israel và nỗ lực đảm bảo hòa bình ở Trung Đông giữa Israel và các nước láng giềng Ả Rập. Trong những năm gần đây, Đảng Cộng hòa đã bắt đầu rời xa cách tiếp cận giải pháp hai nhà nước để giải quyết xung đột Israel-Palestine. Trong một cuộc thăm dò năm 2014, 59% đảng viên Đảng Cộng hòa ủng hộ việc giảm hoạt động ở nước ngoài và thay vào đó tập trung vào các vấn đề của đất nước. 

Theo cương lĩnh năm 2016, lập trường của đảng về tình trạng của Đài Loan là: "Chúng tôi phản đối bất kỳ bước đi đơn phương nào của cả hai bên nhằm thay đổi hiện trạng ở eo biển Đài Loan trên nguyên tắc mọi vấn đề liên quan đến tương lai của hòn đảo phải được giải quyết." một cách hòa bình, thông qua đối thoại và được lòng người dân Đài Loan.” Ngoài ra, nếu "Trung Quốc vi phạm những nguyên tắc đó, Mỹ, theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan, sẽ giúp Đài Loan tự vệ".

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về hợp đồng hôn nhân của Công ty Luật TNHH Everest

VI- CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Đảng Cộng hòa thường gắn liền với các chính sách bảo thủ xã hội, mặc dù đảng này có các phe phái trung dung và tự do bất đồng chính kiến. Những người bảo thủ xã hội ủng hộ các luật đề cao các giá trị truyền thống của họ, chẳng hạn như phản đối hôn nhân đồng giới, phá thai và cần sa. Quan điểm của Đảng Cộng hòa về các vấn đề xã hội và văn hóa một phần phản ánh vai trò có ảnh hưởng mà quyền Cơ đốc giáo đã có trong đảng kể từ những năm 1970. Hầu hết các đảng viên Cộng hòa bảo thủ cũng phản đối việc kiểm soát súng, hành động khẳng định và nhập cư bất hợp pháp.

1- Phá thai và nghiên cứu tế bào gốc phôi

Quan điểm của Đảng Cộng hòa về việc phá thai đã thay đổi đáng kể theo thời gian. Trong những năm 1960 và đầu những năm 1970, sự phản đối việc phá thai tập trung ở các thành viên cánh tả và Đảng Dân chủ; hầu hết những người Công giáo tự do - có xu hướng bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ - phản đối việc mở rộng quyền tiếp cận phá thai trong khi hầu hết những người theo đạo Tin lành bảo thủ đều ủng hộ nó.

Trong thời kỳ này, Đảng Cộng hòa thường ủng hộ việc hợp pháp hóa việc phá thai hơn Đảng Dân chủ, mặc dù có thể nhận thấy sự không đồng nhất đáng kể trong cả hai đảng. Các nhân vật chính trị hàng đầu của Đảng Cộng hòa. bao gồm Richard Nixon, Gerald Ford, Ronald Reagan và George HW Bush, giữ các quan điểm ủng hộ quyền lựa chọn cho đến đầu những năm 1980. Tuy nhiên, bắt đầu từ thời điểm này, cả George HW Bush và Ronald Reagan đều tự mô tả mình là những người ủng hộ sự sống trong nhiệm kỳ tổng thống của họ.

Trong thế kỷ 21, cả George W. Bush và Donald Trump đều tự mô tả mình là những người “ủng hộ sự sống” trong nhiệm kỳ của mình. Tuy nhiên, Trump tuyên bố rằng ông ủng hộ tính hợp pháp và đạo đức của việc phá thai trước khi tranh cử vào năm 2015.

Kể từ những năm 1980, sự phản đối việc phá thai đã trở nên mạnh mẽ nhất trong đảng của những người Công giáo theo chủ nghĩa truyền thống và những người theo đạo Tin lành bảo thủ. Ngoại trừ việc phải chịu thử thách bằng nước đắng trong Dân số ký 5:11-31, Kinh thánh không đề cập đến chủ đề phá thai hoặc có quan điểm rõ ràng về việc thực hành này, mặc dù một số câu đã được hiểu là ủng hộ hoặc phản đối đạo đức phá thai. Ban đầu, những người theo đạo Tin lành tương đối thờ ơ với nguyên nhân phá thai và phần lớn coi đó là mối lo ngại của giáo phái và Công giáo. 

Nhà sử học Randall Balmer lưu ý rằng cuốn Christian Today của Billy Graham xuất bản năm 1968 một tuyên bố của nhà thần học Bruce Waltke rằng: "Chúa không coi bào thai như một linh hồn, bất kể quá trình bào thai đã tiến triển đến đâu. chính xác: "Nếu một người giết bất kỳ mạng sống con người nào, anh ta sẽ bị xử tử". 

Nhưng theo Exodus 21:22-24, việc phá hủy bào thai không phải là một tội tử hình. Rõ ràng thì trái ngược với người mẹ, bào thai không được coi là linh hồn”.

Niềm tin tương tự cũng được giữ trong số những nhân vật bảo thủ trong Hội nghị Baptist Nam phương, bao gồm cả WA Criswell, người được cho là một phần trong việc bắt đầu " sự hồi sinh của phe bảo thủ " trong tổ chức, người đã tuyên bố: "Tôi luôn cảm thấy rằng đó chỉ là sau khi một đứa trẻ được sinh ra và có một cuộc sống tách biệt với mẹ nó, nó đã trở thành một cá thể riêng biệt và do đó, đối với tôi, nó luôn luôn cho rằng điều gì tốt nhất cho mẹ và cho tương lai nên được cho phép."

Ngày nay, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy cử tri Đảng Cộng hòa bị chia rẽ nặng nề về tính hợp pháp của việc phá thai, mặc dù đại đa số các ứng cử viên cấp quốc gia và cấp bang của đảng đều chống phá thai và phản đối việc phá thai tự chọn vì lý do tôn giáo hoặc đạo đức. Trong khi nhiều người ủng hộ các trường hợp ngoại lệ trong trường hợp loạn luân, hiếp dâm hoặc tính mạng của người mẹ bị đe dọa, thì vào năm 2012, đảng này đã thông qua một cương lĩnh ủng hộ việc cấm phá thai mà không có ngoại lệ. 

Không có sự khác biệt phân cực cao giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa trước phán quyết của Tòa án tối cao Roe v. Wade 1973 (quyết định cấm quyền phá thai là vi hiến), nhưng sau phán quyết của Tòa án tối cao, việc phản đối phá thai đã trở thành một nền tảng quốc gia ngày càng quan trọng đối với Đảng Cộng hòa. Kết quả là, những người theo đạo Tin lành hướng về Đảng Cộng hòa. Hầu hết các đảng viên Đảng Cộng hòa phản đối việc chính phủ tài trợ cho các nhà cung cấp dịch vụ phá thai, đặc biệt là Planned Parenthood. Điều này bao gồm việc ủng hộ Tu chính án Hyde.

Cho đến khi giải thể vào năm 2018, Đa số Đảng Cộng hòa cho Sự lựa chọn, một PAC về quyền phá thai, đã ủng hộ việc sửa đổi nền tảng GOP để bao gồm các thành viên ủng hộ quyền phá thai.

2- Hành động khẳng định

Đảng Cộng hòa nói chung chống lại hành động khẳng định dành cho phụ nữ và một số nhóm thiểu số, thường mô tả nó như một "hệ thống hạn ngạch" và tin rằng nó không mang tính nhân tài và phản tác dụng về mặt xã hội bằng cách chỉ thúc đẩy hơn nữa sự phân biệt đối xử. Lập trường chính thức của GOP ủng hộ các chính sách tuyển sinh trung lập về chủng tộc trong các trường đại học, nhưng ủng hộ việc tính đến tình trạng kinh tế xã hội của sinh viên. Cương lĩnh của Ủy ban Quốc gia Đảng Cộng hòa năm 2012 nêu rõ: "Chúng tôi ủng hộ những nỗ lực giúp các cá nhân có thu nhập thấp có cơ hội công bằng dựa trên tiềm năng và thành tích cá nhân của họ; nhưng chúng tôi từ chối các ưu đãi, hạn ngạch và trợ cấp, coi đó là phương pháp tốt nhất hoặc duy nhất để qua đó sự công bằng có thể đạt được, dù trong chính phủ, giáo dục hay phòng họp của công ty…Thành tích, khả năng, năng khiếu và kết quả phải là những yếu tố quyết định sự tiến bộ trong xã hội của chúng ta”.

3- Quyền sở hữu súng

Quan điểm của Mỹ về các vấn đề kiểm soát súng bị chia rẽ sâu sắc theo đường lối chính trị, như thể hiện trong cuộc khảo sát năm 2021 này. Đảng Cộng hòa thường ủng hộ quyền sở hữu súng và phản đối luật quản lý súng. Các đảng viên và những người độc lập theo đảng Cộng hòa có khả năng sở hữu súng cao gấp đôi so với những người thuộc đảng Dân chủ và những người độc lập theo đảng Dân chủ.

Hiệp hội Súng trường Quốc gia Mỹ, một nhóm lợi ích đặc biệt ủng hộ quyền sở hữu súng, đã liên tục liên kết với Đảng Cộng hòa. Sau các biện pháp kiểm soát súng dưới thời chính quyền Clinton, chẳng hạn như Đạo luật Thực thi Pháp luật và Kiểm soát Tội phạm Bạo lực năm 1994, Đảng Cộng hòa đã liên minh với NRA trong Cách mạng Cộng hòa năm 1994. Kể từ đó, NRA đã liên tục ủng hộ các ứng cử viên Đảng Cộng hòa và đóng góp hỗ trợ tài chính, chẳng hạn như trong cuộc bầu cử bãi nhiệm Colorado năm 2013 dẫn đến việc lật đổ hai đảng viên Đảng Dân chủ ủng hộ việc kiểm soát súng cho hai đảng viên Cộng hòa chống kiểm soát súng.

4- Hợp pháp hóa thuốc

Các quan chức được bầu của Đảng Cộng hòa trong lịch sử đã ủng hộ Cuộc chiến chống ma túy. Họ phản đối việc hợp pháp hóa hoặc phi hình sự hóa các loại ma túy như cần sa.

Sự phản đối việc hợp pháp hóa cần sa đã giảm bớt đáng kể theo thời gian trong số các cử tri Đảng Cộng hòa. Một cuộc thăm dò của Quinnipiac năm 2021 cho thấy 62% đảng viên Cộng hòa ủng hộ việc hợp pháp hóa việc sử dụng cần sa giải trí và mức ủng hộ ròng cho quan điểm này là +30 điểm. 

5- Nhập cư

Đảng Cộng hòa có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nhập cư trong suốt lịch sử của mình, kể cả trong thời hiện đại. Trong giai đoạn 1850-1870, Đảng Cộng hòa phản đối việc nhập cư nhiều hơn Đảng Dân chủ, một phần vì Đảng Cộng hòa dựa vào sự ủng hộ của các đảng chống Công giáo và chống người nhập cư, chẳng hạn như Know-Nothings, tại thời gian. Trong những thập kỷ sau Nội chiến, Đảng Cộng hòa ngày càng ủng hộ việc nhập cư vì nó đại diện cho các nhà sản xuất ở phía đông bắc (những người muốn có thêm lao động) trong khi Đảng Dân chủ được coi là đảng lao động (muốn có ít lao động hơn để cạnh tranh). với). Bắt đầu từ những năm 1970, các đảng lại đổi chỗ cho nhau khi Đảng Dân chủ ngày càng ủng hộ việc nhập cư hơn Đảng Cộng hòa. 

Đảng Cộng hòa bị chia rẽ về cách đối phó với tình trạng nhập cư bất hợp pháp Năm 2006, Nhà Trắng ủng hộ và Thượng viện do Đảng Cộng hòa lãnh đạo đã thông qua cải cách nhập cư toàn diện mà cuối cùng sẽ cho phép hàng triệu người nhập cư bất hợp pháp trở thành công dân, nhưng Hạ viện (cũng do Đảng Cộng hòa lãnh đạo) đã không thúc đẩy dự luật. Sau khi bị đánh bại trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2012, đặc biệt là do thiếu sự ủng hộ của người Latinh, một số đảng viên Đảng Cộng hòa đã ủng hộ cách tiếp cận thân thiện hơn với người nhập cư, cho phép có nhiều lao động nhập cư hơn và con đường trở thành công dân cho những người nhập cư không có giấy tờ. Đạo luật Hiện đại hóa An ninh Biên giới, Cơ hội Kinh tế và Nhập cư năm 2013 đã được Thượng viện thông qua với tỷ lệ 68-32, nhưng không được đưa ra bỏ phiếu tại Hạ viện và bị thông qua tại Quốc hội lần thứ 113. Trong một cuộc thăm dò năm 2013, 60% đảng viên Đảng Cộng hòa ủng hộ khái niệm con đường.

Năm 2016, ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa Donald Trump đề xuất xây tường dọc biên giới phía Nam. Trump đã ban hành một số chính sách nhập cư cứng rắn trong thời gian cầm quyền của mình, bao gồm lệnh cấm đi lại từ nhiều quốc gia có đa số dân theo đạo Hồi, chính sách Ở lại Mexico đối với những người xin tị nạn, chính sách ly thân gia đình gây tranh cãi và nỗ lực chấm dứt DACA. Kể từ khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của Trump, Đảng Cộng hòa tiếp tục có lập trường cứng rắn chống lại việc nhập cư bất hợp pháp, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nhập cư trong nội bộ đảng

6- Vấn đề LGBT

Tương tự như Đảng Dân chủ, quan điểm của Đảng Cộng hòa về quyền LGBT (viết tắt của: Đồng tính nữ - Lesbian, Đồng tính nam - Gay, Song tính - Bisexual, Chuyển giới - Transgender) đã thay đổi đáng kể theo thời gian, với sự ủng hộ ngày càng tăng giữa cả hai đảng về vấn đề này. Đảng Cộng hòa Log Cabin là một nhóm trong Đảng Cộng hòa đại diện cho những người bảo thủ và đồng minh LGBT, đồng thời ủng hộ quyền và bình đẳng của LGBT. Tính đến năm 2023, đại đa số cử tri Đảng Cộng hòa ủng hộ hôn nhân đồng giới.

Theo FiveThirtyEight, tính đến năm 2022, sự gia tăng ủng hộ hôn nhân đồng giới này diễn ra nhanh hơn ở các cử tri Đảng Cộng hòa so với giới tinh hoa trong đảng và các chính trị gia được bầu chọn. Cả hai chính trị gia Đảng Cộng hòa và Dân chủ đều có quan điểm thù địch về quyền LGBT trước những năm 2000. Từ đầu những năm 2000 đến giữa những năm 2010, Đảng Cộng hòa phản đối hôn nhân đồng giới, đồng thời bị chia rẽ về vấn đề kết hợp dân sự và quan hệ đối tác trong nước đối với các cặp đồng giới. Trong cuộc bầu cử năm 2004, George W. Bush đã vận động nổi bật về sửa đổi hiến pháp nhằm cấm hôn nhân đồng giới; nhiều người tin rằng nó đã giúp Bush tái đắc cử.  

Trong cả hai năm 2004 và 2006, Tổng thống Bush, Lãnh đạo đa số Thượng viện Bill Frist, và Lãnh đạo đa số Hạ viện John Boehner đã thúc đẩy Tu chính án Hôn nhân Liên bang, một tu chính hiến pháp được đề xuất sẽ hạn chế về mặt pháp lý định nghĩa về hôn nhân. hôn nhân của các cặp đôi khác giới. Trong cả hai nỗ lực, bản sửa đổi đều không đảm bảo đủ số phiếu để viện dẫn cloture và do đó cuối cùng không bao giờ được thông qua. Khi nhiều bang hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào những năm 2010, Đảng Cộng hòa ngày càng ủng hộ việc cho phép mỗi bang tự quyết định chính sách hôn nhân của mình.

Tính đến năm 2014, hầu hết các nền tảng GOP của tiểu bang đều bày tỏ sự phản đối hôn nhân đồng giới. Nền tảng GOP năm 2016 định nghĩa hôn nhân là "hôn nhân tự nhiên, sự kết hợp của một nam và một nữ" và lên án phán quyết của Tòa án Tối cao về việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Cương lĩnh năm 2020 vẫn giữ nguyên ngôn ngữ năm 2016 chống lại hôn nhân đồng giới. 

Sau khi đắc cử tổng thống vào năm 2016, Donald Trump tuyên bố rằng ông không phản đối hôn nhân đồng giới hoặc quyết định của Tòa án tối cao trong vụ Obergefell kiện Hodges, nhưng trước đó đã hứa sẽ xem xét bổ nhiệm một thẩm phán Tòa án tối cao để hủy bỏ quyền hiến pháp. Khi còn đương chức, Trump là tổng thống đương nhiệm đầu tiên của Đảng Cộng hòa công nhận Tháng Tự hào LGBT. Ngược lại, chính quyền Trump cấm người chuyển giới phục vụ trong quân đội Mỹ và hủy bỏ các biện pháp bảo vệ khác dành cho người chuyển giới đã được ban hành trong nhiệm kỳ tổng thống của đảng Dân chủ trước đó.

Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa trước đây phản đối việc đưa người đồng tính vào quân đội và phản đối việc bổ sung xu hướng tình dục vào danh sách các tầng lớp được bảo vệ kể từ năm 1992. Đảng Cộng hòa phản đối việc đưa xu hướng tình dục vào danh sách chống phân biệt đối xử các đạo luật từ năm 1992 đến năm 2004. Cương lĩnh năm 2008 và 2012 của Đảng Cộng hòa ủng hộ các đạo luật chống phân biệt đối xử dựa trên giới tính, chủng tộc, tuổi tác, tôn giáo, tín ngưỡng, khuyết tật hoặc nguồn gốc quốc gia, nhưng cả hai cương lĩnh đều im lặng về xu hướng tính dục và bản dạng giới. Nền tảng năm 2016 đã phản đối các đạo luật phân biệt giới tính trong đó có cụm từ "xu hướng tình dục". 

Vào ngày 06/11/2021, Chủ tịch RNC Ronna McDaniel tuyên bố thành lập "Liên minh tự hào RNC", hợp tác với Đảng Cộng hòa Log Cabin, để thúc đẩy tiếp cận cử tri LGBT. Tuy nhiên, sau thông báo, McDaniel xin lỗi vì đã không thông báo trước về thông báo và nhấn mạnh rằng chương trình tiếp cận cộng đồng mới không làm thay đổi Nền tảng GOP, được thông qua lần cuối vào năm 2016.

7- Quyền biểu quyết

Hầu như tất cả các hạn chế về bỏ phiếu trong những năm gần đây đều do Đảng Cộng hòa thực hiện. Đảng Cộng hòa, chủ yếu ở cấp tiểu bang, cho rằng các hạn chế (chẳng hạn như loại bỏ danh sách cử tri, hạn chế địa điểm bỏ phiếu và hạn chế bỏ phiếu sớm và gửi qua thư) là rất quan trọng để ngăn chặn gian lận cử tri, đồng thời cho rằng gian lận cử tri là một vấn đề bị đánh giá thấp trong cuộc bầu cử. Cuộc thăm dò đã nhận thấy đa số ủng hộ việc bỏ phiếu sớm, đăng ký cử tri tự động và luật ID cử tri trong dân chúng nói chung. 

Để bảo vệ những hạn chế của mình đối với quyền bầu cử, Đảng Cộng hòa đã đưa ra những tuyên bố sai trái và phóng đại về mức độ gian lận cử tri ở Mỹ; tất cả các nghiên cứu hiện có chỉ ra rằng nó cực kỳ hiếm, và các tổ chức dân sự và quyền bầu cử thường cáo buộc Đảng Cộng hòa ban hành các hạn chế nhằm tác động đến cuộc bầu cử theo hướng có lợi cho đảng. Nhiều luật hoặc quy định hạn chế quyền bỏ phiếu do đảng Cộng hòa ban hành đã bị thách thức thành công trước tòa, với các phán quyết của tòa án bác bỏ những quy định đó và cáo buộc đảng Cộng hòa thiết lập chúng với mục đích đảng phái.

Sau quyết định của Tòa án Tối cao ở Quận Shelby kiện Holder đã hủy bỏ các khía cạnh của Đạo luật Quyền bầu cử năm 1965, Đảng Cộng hòa đã đưa ra các biện pháp cắt giảm việc bỏ phiếu sớm, thanh lọc danh sách cử tri và áp đặt luật ID cử tri nghiêm ngặt. Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa năm 2016 ủng hộ bằng chứng về quyền công dân là điều kiện tiên quyết để đăng ký bỏ phiếu và giấy tờ tùy thân có ảnh là điều kiện tiên quyết khi bỏ phiếu.

Sau khi Donald Trump và các đồng minh Đảng Cộng hòa của ông đưa ra những tuyên bố sai sự thật về gian lận trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, Đảng Cộng hòa đã phát động nỗ lực trên toàn quốc nhằm áp đặt luật bầu cử chặt chẽ hơn ở cấp tiểu bang. Các dự luật như vậy tập trung vào việc hạn chế bỏ phiếu qua thư, tăng cường luật ID cử tri, rút ngắn thời gian bỏ phiếu sớm, loại bỏ đăng ký cử tri tự động và trong cùng ngày, hạn chế sử dụng thùng đựng phiếu và cho phép tăng thanh lọc danh sách cử tri. Đảng Cộng hòa ở ít nhất tám bang cũng đã đưa ra các dự luật sẽ trao cho các nhà lập pháp quyền lực lớn hơn trong việc quản lý bầu cử, sau khi họ không thành công trong nỗ lực lật ngược kết quả bầu cử ở các bang xung đột mà Biden giành được.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực đầu tư của Công ty Luật TNHH Everest

Luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc điều hành của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
4.7 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Đảng Cộng hòa (Republican Party, US)

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
8.19799 sec| 1260.297 kb