Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
"Nghề luật sư gắn liền với công lý, công bằng. Tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp là nền tảng của nghề luật sư. Lợi nhuận sẽ đến và luôn đến nếu chúng ta nhớ rõ điều này".
Luật sư Phạm Ngọc Minh, Giám đốc điều hành của Công ty Luật TNHH Everest
Hàng ngàn năm trước, các nhà tư tưởng tập trung nghiên cứu làm thế nào quản trị con người, quản trị tổ chức, quản trị nước. Dù có nhiều quan điểm, các nhà tư tưởng vĩ đại đều thống nhất: quản trị phải dựa vào pháp luật.
Học thuyết nổi tiếng Pháp trị (dùng pháp luật để quản trị) của Hàn Phi Tử, 281 TCN - 233 TCN, triết gia Trung Quốc, là lý luận quản trị hoàn chỉnh, lấy Pháp làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ Pháp - Thuật - Thế.
Các luật sư của Công ty Luật TNHH Everest am hiểu sâu sắc về giá trị của Pháp trị. Chúng tôi xác định, thượng tôn pháp luật" là nguyên tắc cao nhất, đồng thời pháp trị ứng dụng trong quản trị quản trị tổ chức, quản trị con người và cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
Hàn Phi Tử (281 TCN - 233 TCN, triết gia Trung Quốc) đã đề ra Học thuyết Pháp trị - Trị nước bằng pháp luật (Dĩ pháp trị quốc), được gọi là “Sự học của Đế vương”, “Công cụ của Đế vương”, “Đạo của Đế vương”.
Pháp trị có ba phương diện: Pháp - Thuật - Thế. Trước tiên, Hàn Phi Tử bàn luận về nguyên tắc và tác dụng của quản trị bằng Pháp luật (Án pháp trị chúng), tiếp theo trình bày về Thuật của Nhà vua chế ngự bề tôi, cuối cùng bàn về Thế là cơ sở để thắng đám đông (Thế giả, thắng chúng chi tư dã).
Thời Chiến Quốc, nước Tần mạnh hơn các nước khác bởi áp dụng pháp trị. Vua nước Tần là Doanh Chính khi biết đến Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử thì triệt để thi hành theo học thuyết này, sau hơn 10 năm thì thống nhất Trung Quốc, lập ra Đế quốc Đại Tần (năm 221 TCN), xưng là Hoàng Đế (Tần Thủy Hoàng). Đây là minh chứng rõ ràng khẳng định giá trị của Pháp trị đối với quản trị.
Một là, dùng pháp luật để cai trị dân chúng. Khởi điểm logic và nền tảng tư duy của Học thuyết Pháp trị là: "tư lợi” là bản tính của con người. Căn cứ vào đặc điểm: con người thấy lợi thì theo, thấy hại thì tránh, từ đó Hàn Phi Tủ chủ trương xây dựng hệ thống pháp luật để người dân vì ham muốn được thưởng hoặc sợ hình phạt nên phải tuân theo ý đồ của người lãnh đạo, dốc sức làm việc. Ông cho rằng, chế độ pháp luật quy định tất cả chức trách, lời nói và hành động của bề tôi (nhất dân chi quy mạc như pháp), người chấp pháp mạnh thì đất nước sẽ mạnh (phụng pháp giả cường tắc quốc cường).
Hai là, xây dựng pháp luật với trung tâm là chế độ thưởng phạt: người quá nhân từ, không thể định ra luật pháp (ái đa giả, tắc pháp bất lập), pháp luật phải công khai (Pháp mạc như hiển), pháp luật không phân biệt sang hèn (Pháp bất a quý), pháp luật rõ ràng, sẽ dễ thực hiện (kỳ pháp dị vi nhi lệnh năng hành), pháp luật phải phù hợp với thời đại (pháp dữ thời chuyển tắc trị, trị dữ thế nghi tắc hữu công), thưởng phạt nghiêm minh (chính thưởng phạt nhi phi nhân hạ), dùng hình phạt để loại trừ hình phạt (dĩ hình khử hình),
Ba là, giữ chữ tín trong việc ban thưởng, nhất định phåi thi hành hình phạt: giữ lời hứa nhỏ, tạo uy tín lớn (tiểu tín thành tắc đại tín lập), giữ chữ tín khi thưởng, mọi người sẽ làm việc tích cực (tín thưởng tận năng), hình phạt hà khắc, tạo lập uy tín (tất phạt minh uy), khen thưởng phải đi đôi, trách phạt phải đồng hành (thưởng dự đồng quỹ, phi chu câu hành), xử phạt dựa vào tội trạng, ban thưởng dựa vào công lao, giao việc dựa vào năng lực (dĩ tội thụ chu, dĩ công thụ thưởng, dĩ năng thụ nhiệm).
Hàn Phi Tử viết: “Việc lớn của nhà vua không phải là pháp luật, thì là thuật số. Pháp luật được biên soạn thành sách, thiết lập trong quan phủ, và ban bố rộng rãi trong dân chúng. Còn thuật số ẩn giấu trong bụng nhà vua để đối phó với các sự việc tiềm ẩn, chi phối quần thần. Cho nên, pháp luật càng công khai càng tốt, còn thuật số lại không được hiển lộ. Vì vậy, khi vị vua anh minh bàn về pháp luật thì những kẻ thấp hèn không ai không biết, không riêng một nhà. Còn khi sử dụng thuật số, ngay cả thân tín được nhà vua sủng ái cũng không thể nghe được, càng không được để cho cả đám người đều biết”. Như vậy, nghệ thuật quản trị (thuật số) là một loại tâm kế và thủ đoạn được giấu kín trong lòng, biến hoá khôn lường.
Hàn Phi Tử đưa ra nhiều “dương mưu”, “dương kế” (mưu lược quang minh) như: trị quan, không trị dân (trị lại bất trị dân), đưa ra quyết định sau khi bàn luận ở chốn đông nguời (hậu ngôn tắc lập), thuốc đắng dã tật, lời thật mất lòng (lương dược khổ khẩu nhi ẩm chi, trung tín nghịch nhĩ nhi thính chi), đặt ra một tiêu chuẩn để đối chiếu (thiết độ nhi trì chi), tiến cử người ngoài không tránh kẻ thù, tiến cử người trong nhà không né con mình (ngoại cử bất tỵ cừu, nội cử bất tỵ tử), chọn tể tướng từ nha môn, chọn đại tướng từ quân đội (tể tướng tất khởi vu châu bộ, mãnh tướng tất khởi vu tốt ngũ).
Hàn Phi Tử cũng đưa ra nhiều “âm mưu”, “âm kế" (thủ đoạn thâm hiểm): nói lời trái với ý định, làm việc trái với thực tế (đào ngôn phản sự dĩ thường sở nghi, tác gian tình đắc), giấu tình cảm, che suy nghĩ (yểm kỳ tình, nặc kỳ đoan), đánh vào lòng nghi ngờ, tra hỏi việc đã biết (nghi chiếu quỷ sứ), xem xét tác dụng, đánh giá công hiệu cúa của lời nói (Đốc kỳ dụng, khoá kì công), tin vào bản thân, không tin vào người khác (ninh tự tín, vật tín nhân)... Những mưu lược chứa đựng sự thâm hiểm, xấu xa, tàn nhẫn, nhưng cũng thể hiện trí tuệ cao siêu, khả năng biến hoá mẫn tiệp của Hàn Phi Tử.
Hàn Phi Tử lập luận: chưa có địa thế có lợi, cây đại thụ cũng chỉ ngang tầm chân núi mà thôi; Cây cao một thước trên núi cao thì có thể trông xuống khe suối sâu nghìn nhận, đó là vì nó đứng ở chỗ cao. Thứ nặng mấy vạn cân cho lên thuyền thì nổi. Thứ nặng vài lạng không có thuyền cūng sē chìm nghỉm. Đó là vì giữa hai thứ này khác nhau ở chỗ có thế và không có thế. Từ đó, Hàn Phi Từ khẳng định: “Thế là cơ sở để thắng đám đông” (Thế giả, thắng chúng chi tư dã). Người có tài mà không có thế, cũng chẳng thể chế phục được kẻ bất tài. Để yên ổn trị nước, nhà vua phải nắm giữ quyền thế. Chỉ người nắm quyền thống trị trong tay mới là người thống trị đúng nghĩa.
Thế là ‘ngôi vị’, ‘quyền thế’, ‘thế trọng’, 'quyền thống trị'. Những triết lý được đưa vào quản trị hiện đại như: vừa đe dọạ vừa dụ dỗ, bề tôi sẽ đem sức lực phục vụ nhà vua (uy hách lợi dụ sứ thần hiệu lực), nắm quyền để xử thế, dùng hình phạt và đức hạnh để quản trị (chấp bính dĩ xử thế, hình ðức chế thần hạ); giữ pháp luật quản trị đất nước, bỏ pháp luật đất nước hỗn loạn (bảo pháp xử thế tắc trị, bối pháp khử thế tắc loạn), dựa vào hình thế có thể thành công, dựa vào quy luật dễ thành công (nhân khả thế, cầu dịch đạo), tay áo dài thì múa đẹp, tiền vốn nhiều thì buôn bán tốt (trường tụ thiện vũ, đa tiền thiện cổ), giải quyết việc khó ngay từ lúc nó vẫn còn dễ giải quyết (đồ nan vu dị, vi đại vu tế), danh và thật nâng đỡ nhau, hình và ảnh đối xứng nhau (danh thật tương trì nhi thành, hình ảnh tương ứng nhi lập), làm việc phải hợp lý, biết tính toán thiệt hơn (cử sự hữu đạo, kế nhập hựu kế xuất).
Xem thêm: Hàn Phi Tử - Mưu lược tung hoành
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ "Rule of law" tạm dịch "sự thống trị của luật pháp" hay "pháp luật thống trị" hay "thượng tôn pháp luật" hay đơn giản là Pháp trị. Tại Việt Nam Rule of law đang sử dụng với nghĩa phổ biến là "Pháp quyền", còn Pháp trị được dịch là Rule by law.
Thuật ngữ pháp quyền có lẽ lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào năm 1921 bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Quốc tế vì hoà bình họp ở Versailles, sau đó dịch ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát chuyển về phổ biến rộng rãi với đồng bào trong nước dưới nhan đề “Việt Nam yêu cầu ca”: “... Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền...”.
Trong từ điển Hán Việt, Pháp (Hán tự: 法), nghĩa: phương pháp, pháp luật; Trị (Hán tự: 治), nghĩa là: cai trị; Quyền (Hán tư: 權), nghĩa là: quả cân, quyền lợi; Pháp trị (Hán tự: 法治), nghĩa là: chế độ trị lý (quản trị) căn cứ trên pháp luật; Pháp quyền: không có từ Hán Việt tương ứng.
Hiện nay có nhiều tranh luận, xung quanh thuật ngữ pháp trị hay pháp quyền, pháp quyền hay nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, bản chất của vấn đề quan trọng hơn tên gọi của vấn đề đó.
Aristotle, 384 TCN - 322 TCN, nhà triết học và bác học người Hy Lạp cổ điển, được ghi nhận là người đầu tiên đề cập đến Pháp trị: "Hãy để luật pháp, chứ không phải con người có quyền tối thượng" (The rule of law is better than that of any individual). Aristotle ghi nhận rằng, rất có thể có một người hay một nhóm người siêu tuyệt hơn mọi người, chỉ một mực chăm lo cho cái tốt chung của quốc gia, và theo luận lý tự nhiên thì người này hay nhóm người này nắm quyền tối thượng là thuận lý. Nhưng Aristotle lưu ý, những người như vậy là “thần thánh chứ không phải là con người”.
Nội hàm của Pháp trị phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ Khai Sáng (Châu Âu, thế kỷ 17 và 18), với các nhà tư tưởng: Thomas Hobbes (1588 - 1679), François-Marie Arouet (Voltaire, 1694 - 1778,), Charles-Louis de Secondat, Baron de La Brède et de Montesquieu (Montesquieu, 1689 - 1755), John Locke, Jean-Jacques Rousseau (1712 - 1778), Thomas Paine (1737 - 1809), Albert Venn Dicey (1835 - 1922)
Trong tác phẩm Khế ước xã hội, J.J.Rousseau minh định để tìm ra nguyên lý chính đáng thiết lập nên một chính quyền và xã hội dân sự, trong đó nhân dân trao quyền lực cho Nhà nước để điều hành đất nước theo ý chí của nhân dân, đồng thời quyền lực chính trị của chính quyền sẽ bị thu hồi bất cứ lúc nào nếu điều hành đất nước không theo nguyện vọng, ý chí và lợi ích của dân. Rule of law là một trạng thái xã hội, một xu hướng khách quan của vận động xã hội, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội và hoạt động chính trị.
John Locke năm 1689 viết một danh tác chính trị để đời Khảo luận thứ hai về chính quyền. Học thuyết của ông tập trung vào vấn đề quyền tự nhiên, khế ước xã hội và phân chia quyền lực, trong đó vấn đề hạn chế và kiểm soát quyền lực được đặt lên hàng đầu.
Montesquieu viết danh tác Tinh thần pháp luật tin rằng hiến pháp là nền tảng của tự do khi nó là những cam kết bảo đảm quyền con người. Học thuyết chính trị của Montesquieu bao quát nhiều vấn đề từ bản chất của pháp luật, đến các hình thức chính quyền, phân chia quyền lực, địa chính trị… nhưng quan trọng nhất là học thuyết phân chia quyền lực, được gọi là “tam quyền phân lập”, xem như đó là một tất yếu để kiểm soát quyền lực với ý tưởng căn bản: không có quyền lực nào không bị kiểm soát.
Như vậy, rule of law là một nguyên tắc ứng xử trong xã hội, một tinh thần pháp luật của xã hội công dân, một chế độ pháp luật công bằng và tự nhiên để bảo đảm quyền con người và chủ quyền nhân dân, một sự cam kết mạnh mẽ giữa xã hội công dân và Nhà nước để quy định phạm vi giới hạn quyền lực Nhà nước, một cách thức để kiểm soát quyền lực Nhà nước.
Rule of law không đưa ra bất cứ mô hình Nhà nước nào mà chỉ đòi hỏi bất cứ Nhà nước nào thực hiện nguyên tắc rule of law đều phải tôn trọng công lý, pháp luật công bằng và quyền con người. Rule of law không mang tính giai cấp và không nhằm tăng cường quyền lực Nhà nước mà ngược lại, hạn chế quyền lực Nhà nước, giới hạn quyền lực Nhà nước để bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con người, thực hiện nguyên tắc: Nhà nước và cán bộ viên chức Nhà nước chỉ được làm những việc pháp luật cho phép, công dân được làm tất cả những gì pháp luật không ngăn cấm.
Pháp luật trong rule of law không phải là pháp luật do Nhà nước đặt ra mà phải là pháp luật tự thân, phản ánh những yêu cầu và quy luật tự nhiên, khách quan, các văn bản luật là sự ghi chép lại, phản ánh lại những quy tắc xử sự đương nhiên của cuộc sống đòi hỏi phải có để điều chỉnh.
Trong một chế độ dân chủ, pháp luật là công cụ của tự do cho con người chứ không phải là công cụ thống trị con người. Cốt lõi của rule of law là một xã hội công lý và nhân quyền, Nhà nước chỉ là một phương tiện, công cụ để thực hiện công lý và bình đẳng, tự do, nhân quyền. Điểm nhấn mạnh của rule of law là pháp luật công bằng cho tất cả mọi người, là pháp luật tự nhiên, là công cụ của tự do chứ không phải là công cụ thống trị, từ đó pháp luật trở thành tối thượng.
Xem thêm: Dịch vụ pháp chế thuê ngoài của Công ty Luật TNHH Everest
Tại Công ty Luật TNHH Everest, các luật sư, chuyên gia và nhân viên am hiểu sâu sắc về giá trị của Pháp trị. Chúng tôi xác định, thượng tôn pháp luật" là nguyên tắc cao nhất.
Là tổ chức hành nghề luật sư, Công ty Luật TNHH Everest trước hết chịusự điều chỉnh hệ thống pháp luật của nhà nước.
Hệ thống pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh mối hệ giữa tổ chức hành nghề luật sư với cơ quan quản lý nhà nước, khách hàng và các tổ chức, cá nhân khác. Đặc biệt, liên quan đến hành nghề luật sư, luật sư và tổ chức hành nghề luật sư chịu sự điều chỉnh của pháp luật về luật sư, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, trợ giúp pháp lý, xử lý vi phạm hành chính. Liên quan đến nghĩa vụ của tổ chức trong nền kinh tế, luật sư và tổ chức hành nghề luật sư chịu sự điều chỉnh của pháp luật về thuế, lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thống kê, phòng chống tham nhũng. Khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng luật sư còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật có liên quan.
Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư có nghĩa vụ tuân thủ đúng đủ các quy định của pháp luật về không được (cấm) thực hiện hành vi nhất định hoặc buộc phải thực hiện những hành vi nhất định.
Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư có quyền sử dụng pháp luật thông minh mang lại lợi ích tốt nhất cho chính mình và cho khách hàng trong trường hợp sử dụng pháp luật là quy định mang tính chất hướng dẫn, cho phép thực hiện hành vi nhất định.
Sứ mệnh của luật sư: Luật sư có sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ sự độc lập của tư pháp, góp phần bảo vệ công lý, công bằng, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chức năng xã hội: Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đạo đức nghề nghiệp: Tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Luật sư phải có bổn phận tự mình nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn; nêu gương trong việc tôn trọng, chấp hành pháp luật; tự giác tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề, trong lối sống và giao tiếp xã hội.
Hệ thống quy tắc nội bộ của công ty: đầu tiên đó các giá trị cốt lõi, triết lý, sứ mệnh, tầm nhìn của doanh nghiệp (văn hóa doanh nghiêp), tiếp theo là điều lệ doanh nghiệp, tức là luật cơ bản, quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc và cơ bản nhất của một doanh nghiệp (hiến pháp của doanh nghiệp), tiếp theo là quy định, quy chế, quy trình, hướng dẫn áp dụng trong nội bộ doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với đối tác, nhà cung cấp, nhà phân phối.
Thứ nhất, việc xây dựng các quy tắc nội bộ của Công ty đảm bảo sự: thống nhất, đồng thuận, dài hạn, rõ ràng, minh bạch, dựa trên tinh thần nhân ái, hài hòa lợi ích của các thành viên, đối tác, khách hàng và xã hội.
Thứ hai,, sự tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh hệ thống pháp luật đó.
Bắt đầu từ văn hóa tổ chức, chúng tôi cụ thể hóa thành các chuẩn mực, tiêu chuẩn, quy trình, quy định, quy chế... tổ chức thực hiện, kiểm soát và điều chỉnh để ngày càng chuyên nghiệp, hoàn hảo hơn.
- Về văn hóa tổ chức:
Tầm nhìn: Trở thành tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý đa dạng, chuyên nghiệp, uy tín, có mạng lưới và sự hiện diện rộng khắp.
Sứ mệnh: Cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng, dễ sử dụng, chi phí hợp lý, góp phần đưa dịch vụ pháp lý trở thành thông dụng.
Triết lý: Thành công bền vững đến từ đội ngũ luật sư nhân ái, thượng tôn pháp luật, đề cao công bằng, rèn luyện không ngừng.
Giá trị cốt lõi: Chia sẻ - Kết nối - Tin tưởng - Khác biệt - Kết quả.
Nền tảng: Công ty phải là nơi hội tụ của những luật sư chuyên nghiệp, thượng tôn pháp luật, tôn trọng đạo đức, lẽ công bằng, không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn, uy tín cá nhân và tổ chức. Chúng tôi phải có bổn phận tự mình nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn; nêu gương trong việc tôn trọng, chấp hành pháp luật; tự giác tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề, trong lối sống và giao tiếp xã hội.
Trụ cột: Công ty ứng dụng công nghệ, áp dụng triết lý quản trị truyền thống và hiện đại, từng bước mở rộng hợp tác sâu, rộng với nhiều đối tác, nhằm mang tới cho khách hàng phong cách phục vụ chuyên nghiệp, dịch vụ có chất lượng cao, chi phí hợp lý.
Toàn bộ Tầm nhìn, Sứ mệnh, Giá trị cốt lõi, Triết lý, Nền tảng, Trụ cột nêu trên đều được cụ thể hóa bằng hệ thống quy tắc ứng xử nội bộ: tiêu chuẩn, chuẩn mực, quy trình, quy định, quy chế của tổ chức.
Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm