Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam

27/02/2023
Để đánh giá về mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật cần phải dựa vào những tiêu chí được xác định về mặt lí thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một cách khách quan và rút ra những kết luận, làm sáng tỏ những ưu điểm và nhược điểm của hệ thống.

Có nhiều tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam trong đó có các tiêu chí cơ bản sau đây:

I- TÍNH TOÀN DIỆN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT 

Tính toàn diện của hệ thống pháp luật thể hiện ở cấu trúc hình thức của nó, nghĩa là hệ thống pháp luật phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi các quy phạm pháp luật phải có khả năng bao quát toàn bộ đời sống xã hội, để các quan hệ xã hội quan trọng có tính điền hình, phổ biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật thì đều có pháp luật điều chỉnh. 

Tính toàn diện của hệ thống pháp luật cần phải được đánh giá ở nhiều cấp độ khác nhau như từng quy phạm pháp luật phải có cấu trúc lôgíc, chặt chẽ; mỗi chế định pháp luật có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết; mỗi ngành luật có đầy đủ các chế định pháp luật theo cơ cấu của ngành luật; còn hệ thống pháp luật có đủ các ngành luật đáp ứng được nhu cầu phát triển của các quan hệ xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Điều này đòi hỏi các quy phạm pháp luật phải được ban hành toàn diện và đồng bộ, không chỉ chú trọng tới các quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước mà còn phải chú ý tới các quy phạm pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện các quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực đời sống dân sinh như dân sự, thưong mại, đầu tư..., không chỉ chú trọng tới luật nội dung mà còn phải chú ý tới luật hình thức về trình tự, thủ tục. Đồng thời, phải ban hành đầy đủ các quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định pháp luật trong những trường họp cần có sự quy định chi tiết.

II- TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐỒNG BỘ CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

Giữa các bộ phận hợp thành hệ thống pháp luật không chỉ có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ mà còn luôn có sự thống nhất nội tại với nhau. Sự thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong việc thực hiện pháp luật. Tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật phải được thể hiện trong cả hệ thống cũng như trong từng bộ phận hợp thành của hệ thống ở các cấp độ khác nhau, nghĩa là giữa các ngành luật trong hệ thống; giữa các chế định pháp luật trong cùng ngành luật; giữa các quy phạm pháp luật trong chế định pháp luật cũng phải thống nhất. Không có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn nhau của các quy phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong các bộ phận khác nhau của hệ thống. Điều này đòi hỏi các quy phạm pháp luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà về nội dung mà còn phải bảo đảm sự đồng bộ, tính thứ bậc của mỗi quy phạm về hiệu lực của chúng, trong đó, các quy phạm trong Hiến pháp phải có hiệu lực pháp luật cao nhất, các quy phạm pháp luật khác phải phù hợp với quy phạm trong Hiến pháp.

Bất kì một quy phạm pháp luật nào cũng được tạo ra và tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà trong một tổng thể những mối ỉiên hệ và ràng buộc nhất định. Do vậy, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi và hiệu quả của pháp luật. Bởi tất cả những mối liên hệ, ràng buộc đó của các quy định pháp luật với những yếu tố và hiện tượng khác nhau trong đời sống xã hội xét đến cùng đều có ảnh hưởng tới sự tác động, điều chỉnh của pháp luật.

Xem thêm: Các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

III- TÍNH PHÙ HỢP VÀ KHẢ THI CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nội dung của hệ thống pháp luật luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó.

Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nhiều mặt như chúng phải phù hợp với các điều kiện kinh tể, điều kiện chính trị của đất nước, mà quan trọng nhất là phù họp với đường lối, chính sách của Đảng cầm quyền; phù họp với đạo đức, tập quán, truyền thống và các quy phạm xã hội khác... Ngoài ra, hệ thống pháp luật quốc gia phải được xây dựng phù họp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ quốc tế, có phương pháp điều chỉnh pháp luật phù họp cho mỗi loại quan hệ xã hội.

Tính khả thi của hệ thống pháp luật còn thể hiện ở việc các quy phạm pháp luật được ban hành phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Nghĩa là, khi ban hành quy phạm pháp luật, phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy phạm pháp luật đó hay không, đồng thời, phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy phạm pháp luật đó, trình độ văn hoá và kiến thức pháp lí của nhân dân...

IV- NGÔN NGỮ VÀ KĨ THUẬT XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

Để đánh giá hệ thống pháp luật còn phải xem xét trình độ kĩ thuật pháp lí khi xây dựng pháp luật. Điều này thể hiện, khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải đưa ra được những nguyên tắc, những trình tự, thủ tục tối ưu để tiến hành có hiệu quả quá trình đó nhằm tạo ra được những quy phạm pháp luật tốt nhất, đồng thời phù hợp với các quy định đã có; xác định chính xác, khoa học cơ cấu của hệ thống quy phạm pháp luật phù họp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ngôn ngữ được sử dụng phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu, bảo đảm tính cô đọng, lôgíc và một nghĩa. Đối với những thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung đều phải được giải thích trong nguồn pháp luật.

V- TÍNH HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

Ngoài việc sử dụng nhũng tiêu chí nêu trên để đánh giá hệ thống pháp luật, một số học giả còn chú trọng tới tiêu chí tính hiệu quả của hệ thống. Do vậy, đánh giá hệ thống pháp luật còn cần chú ý xem mục đích đề ra cho pháp luật có thể đạt được trên thực tế hay không; số lượng và chất lượng của các kết quả thực tế đạt được; những chi phí cho việc đạt được các kết quả đó...

Một hệ thống pháp luật có chất lượng thì phải bảo đảm tính hiệu quả, nghĩa là, các mục đích đề ra cho pháp luật đã đạt được trên thực tế với những chi phí thấp trong những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội hiện tại.


Luật sư: Nguyễn Thị Bích Phượng - Trưởng phòng Doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (từ Giáo trình Lý Luận chung về nhà nước và pháp luật - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).

0 bình luận, đánh giá về Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
1.45165 sec| 955.695 kb