Hoàn thuế, khấu trừ thuế, và giảm thuế tiêu thụ đặc biệt

12/03/2023
Luật sư Nguyễn Thị Bích Phượng
Luật sư Nguyễn Thị Bích Phượng
Hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt là trường hợp người nộp thuế được hoàn lại số tiền thuế đã nộp khi đáp ứng được các điều kiện theo pháp luật quy định. Khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt là trường hợp được cấn trừ với số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp trước đó.

1- Hoàn thuế

Hoàn thuế là việc trả lại cho người nộp thuế một phần hoặc toàn bộ số thuế mà người nộp thuế đã nộp vào ngân sách nhà nước.

Theo pháp luật hiện hành, người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt được hoàn thuế trong các trường hợp: (1) hàng tạm nhập, tái xuất khẩu; (2) hàng là nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu; (3) quyết toán thuế khi sáp nhập, chia, tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu, giao, bán khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước có số thuế nộp thừa; (4) có quyết định hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoặc hoàn thuế trong trường hợp số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp lớn hơn số thuế tiêu Thụ đặc biệt phải nộp. Việc hoàn thuế trong trường hợp (1) và (2) chỉ thực hiện đối với hàng hoá thực tế xuất khẩu.

Để được hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt, người nộp thuế phải nộp hồ sơ hoàn thuế tại cơ quan thuế quản lí trực tiếp hoặc cơ quan hải quan có thẩm quyền hoàn thuế. Hồ sơ gồm: (4) văn bản yêu cầu hoàn thuế; (2) chứng từ nộp thuế; (3) các tài liệu khác liên quan đến yêu cầu hoàn thuế. Sau khi nhận được hồ sơ hoàn thuế, cơ quan quản lý thuế phải làm thủ tục tiếp nhận hồ sơ (nếu hồ sơ đầy đủ) hoặc thông báo cho người nộp thuế hoàn chỉnh hồ sơ trong vòng ba ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ hoàn thuế, cơ quan quản lí thuế phải quyết định hoàn thuế; hoặc thông báo về việc chuyển hồ sơ sang diện kiểm tra thêm; hoặc phải thông báo lí do không hoàn thuế. Đối với những hồ sơ cần kiểm tra thêm, cơ quan quản lí thuế cần phải quyết định hoàn thuế hoặc không hoàn thuế trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hoàn thuế. Trường hợp từ chối ra quyết định hoàn thuế, cơ quan quản lí thuế phải thông báo lí do cụ thể.

2- Khấu trừ thuế

Việc khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ được thực hiện trong trường hợp người nộp thuế sản xuất hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng chính nguyên liệu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và chỉ khi người nộp thuế có chứng từ hợp pháp. Trong trường hợp đó, số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp ở khâu sản xuất, là số thuế được xác định sau khi đã khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp đối với phần nguyên liệu dùng vào sản xuất ra hàng hoá chịu thuế, số thuế được khấu trừ tương ứng với số thuế tiêu thụ đặc biệt của nguyên liệu đã sử dụng để sản xuất ra hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất bán.

Người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhập khẩu (trừ xăng các loại) được khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp ở khâu nhập khẩu khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp bán ra trong nước, số thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ tương ứng với số thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng hoá nhập khẩu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bán ra.

3- Giảm thuế

Thuế tiêu thụ đặc biệt thuộc loại thuế gián thu, do người tiêu dùng chịu và thực chất cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế hoặc cơ sở nhập khẩu hàng hoá chịu thuế chỉ đứng ra nộp thuế thay cho người tiêu dùng. Việc nộp thuế, vì vậy, không ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của cơ sở kinh doanh có nghĩa vụ nộp thuế. Nói cách khác, vấn đề miễn và giảm thuế tiêu thụ đặc biệt về nguyên tắc không cần đặt ra. Tuy nhiên, trong cả quãng thời gian dài trước đây, để chiếu cố đến khó khăn thực tế mà các cơ sở kinh doanh có thể gặp phải, pháp luật vẫn đề ra những trường hợp được xét miễn và giảm thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong những năm gần đây, phạm vi các trường hợp được xét miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt đã dần dần được thu hẹp. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2003 đã bỏ bớt các trường hợp được xét giảm hoặc miễn thuế tiêu thụ đặc biệt, theo đó, cơ sở sản xuất bia quy mô nhỏ và cơ sở kinh doanh golf không còn được xếp vào những đối tượng đặc biệt được xét giảm thuế như trước đó. Vì vậy, từ ngày 01/01/2004, việc miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ được áp dụng trong hai trường hợp: Một là giảm hoặc miễn thuế khi cơ sở sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gặp khó khăn khách quan, ảnh hưởng tới kết quả sản xuất; hai là giảm mức thuế suất cho các cơ sở sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước. Sản xuất, lắp ráp ô tô ở nước ta khi đó được coi là ngành công nghiệp non trẻ, năng lực cạnh tranh còn yếu, vì vậy, cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước thì các cơ sở này mới có thể tồn tại trước sự cạnh tranh của ô tô ngoại nhập. Tuy nhiên, không thể loại bỏ ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước ra khỏi danh mục mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vì điều đó sẽ trái với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết có liên quan tới tính thống nhất về thuế giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Vì vậy khi đó, các nhà làm luật đã lựa chọn giải pháp giảm thuế trên mức thuế suất theo biểu thuế tiêu thụ đặc biệt trong ba năm từ 01/01/2004 đến 31/12/2006 cho các cơ sở sản xuất và lắp ráp ô tô. Từ năm 2007, các cơ sở này sẽ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo đúng mức thuế suất quy định trong biểu thuế.

Như vậy, mặc dù biểu thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt (theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2003) quy định cùng mức thuế suất áp dụng chung cho ô-tô sản xuất, lắp ráp trong nước và ô tô nhập ngoại nhưng do quy định giảm thuế suất cho ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước nên thực chất vẫn có sự phân biệt về thuế suất giữa ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước và ô tô nhập khẩu từ ngoài nước. Để sớm gia nhập WT0, sự phân biệt đối xử về thuế suất áp dụng đối với hai loại ô tô này theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2003 cần phải được xóa bỏ hoàn toàn. Vì vậy, Luật sửa đổi năm 2005 chỉ cho phép xét giảm hoặc miễn thuế trong trường hợp duy nhất, đó là khi cơ sở sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gặp khó khăn khách quan. Đây vẫn là trường hợp cần tiếp tục duy trì chế độ giảm hoặc miễn thuế vì trên thực tế, các cơ sở sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt có thể gặp phải khó khăn khách quan thực sự, ảnh hưởng bất lợi tới kết quả sản xuất hoặc thậm chí làm mất khả năng sản xuất của cơ sở nộp thuế. Trong những tình huống đó, mặc dù tiền thuế cơ sở sản xuất đáng lẽ phải nộp ngân sách nhà nước, không phải là tiền túi của cơ sở đó mà là tiền thu hộ Nhà nước từ khách hàng nhưng nếu được giảm hoặc miễn số thuế này, rõ ràng cơ sở sản xuất sẽ được hỗ trợ về mặt tài chính để khắc phục hậu quả mà mình đã phải gánh chịu do gặp phải khó khăn khách quan. Dự liệu được những tình huống này, pháp luật quy định tuỳ theo mức độ thiệt hại xảy ra đối với cơ sở nộp thuế mà cơ sở đó có thể được xét giảm hoặc miễn thuế.

Tiếp tục lộ trình thu hẹp các trường hợp được ưu đãi thuế tiêu thụ đặc biệt, hiện nay, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 không còn quy định về miễn thuế tiêu thụ đặc biệt mà chỉ còn quy định về giảm thuế. Luật cũng chỉ đưa ra lí do duy nhất cho trường hợp được giảm thuế, đó là khi người nộp thuế sản xuất hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gặp khó khăn do thiên tai, tai nạn bất ngờ. Mức giảm thuế được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra nhưng không quá 30% số thuế phải nộp của năm xảy ra thiệt hại và không vượt quá giá trị tài sản bị thiệt hại sau khi được bồi thường (nếu có).

Cơ quan quản lí thuế thực hiện việc giảm thuế tiêu thụ đặc biệt cho chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế trên cơ sở hồ sơ đề nghị giảm thuế gồm ba phần. Một là văn bản đề nghị giảm thuế (lập theo mẫu), trong đó nêu rõ thời gian, lí do bị thiệt hại; giá trị tài sản bị thiệt hại; số lỗ do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra; số thuế phải nộp; số thuế đề nghị giảm; và danh mục tài liệu gửi kèm. Hai là biên bản xác định mức độ, giá trị thiệt hại về tài sản của cơ quan có thẩm quyền và có xác nhận của chính quyền địa phương nơi xảy ra thiên tai, tai nạn bất ngờ. Ba là bản quyết toán tài chính, nếu đối tượng nộp thuế là doanh nghiệp, kèm theo giải trình phân tích xác định số bị thiệt hại, số Ịỗ do bị thiệt hại.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan thuế ra quyết định giảm thuế hoặc thông báo cho người nộp thuế lí do không thuộc diện được giảm thuế. Trong trường hợp cần kiểm tra thực tế để có đủ căn cứ giải quyết hồ sơ, thời hạn ra quyết định giảm thuế có thể lên đến 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị giảm thuế tiêu thụ đặc biệt.

0 bình luận, đánh giá về Hoàn thuế, khấu trừ thuế, và giảm thuế tiêu thụ đặc biệt

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.35882 sec| 963.164 kb