Khái quát về hợp tác xã

23/02/2023
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã. Hợp tác xã được thành lập với mục đích là hỗ trợ và phục vụ nhu cầu của các thành viên bằng việc cung cấp các dịch vụ như tín dụng, sản xuất, tiếp thị, chế biến, cung ứng vật tư nông nghiệp, huy động các nguồn vốn tiết kiệm...

I- KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ

1- Khái niệm, đặc điểm của hợp tác xã

a) Khái niệm hợp tác xã

Năm 1844, tại Vương quốc Anh, đứng trước những điều kiện sống vô cùng khó khăn, tư thương độc quyền cung cấp thực phẩm với giá đắt, quyền lợi của người tiêu dùng không được bảo đảm, 28 công nhân ở thị trấn Rochdale đã thành lập hợp tác xã tiêu dùng đầu tiên để cung cấp nhu yếu phẩm với mức giá phải chăng, cung cấp cơ sở giáo dục và xã hội cho những người lao động bình thường. Vào thời điểm này, những người lao động ở Pháp cũng đã tổ chức thành lập một số hợp tác xã sản xuất của công nhân. Đến cuối thế kỉ XIX, đã có khoảng 1.400 hợp tác xã được thành lập và hoạt động ở Vương quốc Anh. Nhiều nước trên thế giới cũng đã phát triển mạnh phong trào hợp tác xã và có nhu cầu hợp tác cũng như chia sẻ kinh nghiệm hợp tác hoá giữa các quốc gia.

Mô hình hợp tác xã được những người lao động hưởng ứng và phát triển sâu rộng vì nó là tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. hợp tác xã là tổ chức kinh tế được tổ chức và hoạt động dựa trên các giá trị tương trợ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Tuy hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, nhưng mục đích của hợp tác xã không phải là nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Sứ mạng và mục đích của hợp tác xã là hỗ trợ và phục vụ nhu cầu của các thành viên bằng việc cung cấp các dịch vụ như tín dụng, sản xuất, tiếp thị, chế biến, cung ứng vật tư nông nghiệp, huy động các nguồn vốn tiết kiệm...

Với các quy mô và hình thức khác nhau, các hợp tác xã đã thu hút đông đảo nhân dân lao động và cộng đồng địa phương tham gia. Thông qua các phương thức điều tiết phù hợp, các hợp tác xã đã cải thiện những điều kiện sống và làm việc cho người dân lao động và cộng đồng dân cư ở các địa phương.

hợp tác xã được tổ chức và hoạt động dựa trên triết lí nền tảng là sự hợp tác giữa các thành viên cho một sự nghiệp chung. Bản chất của sự hợp tác này được thể hiện ở những khía cạnh sau:

- Các thành viên có những nhu cầu chung trong sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ mà việc đáp ứng những nhu cầu chung đó thông qua sự hợp tác giữa các thành viên sẽ đem lại hiệu quả lớn hơn so với việc từng thành viên đơn lẻ tự thực hiện. Nhu cầu chung của thành viên là nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ giống nhau phát sinh thường xuyên, ổn định từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống của thành viên hợp tác xã. Đối với hợp tác xã tạo việc làm thì nhu cầu chung của thành viên là có việc làm và có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã.

- Trong quá trình hợp tác với nhau, các thành viên của hợp tác xã vẫn giữ được sự độc lập, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của họ và gia đình họ; các thành viên hợp tác xã và gia đình họ vẫn là những chủ thể kinh tế - xã hội độc lập với hợp tác xã. Sự hợp tác của các thành viên trong mô hình hợp tác xã không triệt tiêu các hoạt động sản xuất, kinh doanh độc lập cũng như các lợi ích riêng của các thành viên hợp tác xã và gia đình họ.

- Các thành viên hợp tác xã có vị trí và vai trò bình đẳng trong sự hợp tác; họ có các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm như nhau trong quá trình hợp tác và thực hiện việc quản lý dân chủ, bình đẳng đối với tổ chức kinh tế của họ, mặc dù họ có thể đóng góp vốn, góp sức lao động và sử dụng dịch vụ với các quy mô khác nhau trong hợp tác xã.1

Cách đây gần 200 năm, các nhà tư tưởng cách mạng ở châu Âu như Robert Owen (Anh), Fourier, Saint Simon (Pháp), Huber, Schulze Delitzsch và Reiffeisen (Đức) đã đưa ra những ý tưởng đầu tiên về mục đích và phương thức tổ chức, hoạt động của các hợp tác xã

Các lãnh tụ của phong trào cộng sản thế giới như F. Àng ghen, V.I. Lênin cũng đã nhiều lần nêu ra các tư tưởng và phương thức tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã. F. Ăngghen viết: “Nông dân trong một làng hay một nhà xứ... phải kết hợp toàn bộ ruộng đất của họ lại thành một doanh nghiệp lớn duy nhất, cùng bỏ sức cày cấy chung và chia hoa lợi theo tỉ lệ ruộng đất đã góp vào, tiền bạc đã bỏ ra và lao động đã làm được”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ giai đoạn đầu của sự nghiệp cách mạng, cũng đã nhận thức rất rõ ràng về bản chất, vai trò của hợp tác xã đối với việc cải thiện điều kiện sống và làm việc của các tầng lớp nhân dân lao động và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày các tư tưởng, quan niệm về hợp tác xã một cách có hệ thống, từ lịch sử, mục đích đến các loại hình hợp tác xã. Người đã đúc rút lí luận và kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của các hợp tác xã ở Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật Bản và phổ biến một cách rất dễ hiểu cách thức tổ chức các loại hình hợp tác xã khác nhau ở Việt Nam.

Ngày 18/8/1895, Liên minh hợp tác xã Quốc tế (Intematyonal Cooperatyve Aliance - ICA) đã được thành lập tại London (Vương quốc Anh) với sự tham gia của 207 đại biểu đến từ nhiều nước trên thế giới. Với lịch sử hơn 100 năm qua, ICA ngày càng được củng cố và phát triển lớn mạnh về tổ chức và hoạt động. Ngày nay, ICA đã kết nạp được nhiều hội viên là hiệp hội hợp tác xã của 96 nước và vùng lãnh thổ với 238 tổ chức thành viên đại diện cho trên 800 triệu thành viên hợp tác xã.

Tại đại hội ICA lần thứ 31 tại Manchester (Anh) tháng 9/1995, ICA đã nêu rõ bản chất của hợp tác xã trong định nghĩa có tính pháp lý trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm hình thành và phát triển của các hợp tác xã trên thế giới trong gần 200 năm qua; đó là: “hợp tác xã là tổ chức/hiệp hội tự chủ của các cá nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một doanh nghiệp được sở hữu chung và được kiểm soát một cách dân chủ”.

Luật hợp tác xã năm 2012 của Việt Nam cũng đã định nghĩa: hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã (khoản 1 Điều 3).

b) Đặc điểm của hợp tác xã

Căn cứ vào khái niệm hợp tác xã, có thể thấy hợp tác xã có các đặc điểm chủ yếu như sau:

Thứ nhất, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể, có các thành viên là cá nhân hoặc tổ chức.

hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể được tổ chức và hoạt động trên cơ sở sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và tài sản. Tài sản, vốn và tư liệu sản xuất của hợp tác xã được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của các thành viên, khi họ gia nhập hợp tác xã. Trong hợp tác xã có sự liên kết rộng rãi của những người lao động, của các hộ thành viên, của các nhà đầu tư, của các doanh nghiệp nhỏ và vừa... thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Sự liên kết và hợp tác này không bị giới hạn bởi số lượng thành viên, quy mô, lĩnh vực và địa bàn sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ. Ngoài các thành viên là cá nhân, các hộ gia đình, các tổ chức, các doanh nghiệp khác cũng có thể được kết nạp làm thành viên hợp tác xã. Trong trường hợp này, các hộ gia đình, các tổ chức, doanh nghiệp sẽ cử ra người làm đại diện thể hiện nguyện vọng và tiếng nói của họ trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của hợp tác xã.

Thứ hai, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc.

Tính xã hội và nhân văn của hợp tác xã được thể hiện rõ trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó, đó là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ. hợp tác xã thực hiện những công việc giúp đỡ, hỗ trợ cho các thành viên và gia đình họ trong sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ, trong việc cải thiện những điều kiện sống và làm việc của họ, trong việc giúp các thành viên nâng cao trình độ văn hoá và nghiệp vụ chuyên môn. Mục tiêu hoạt động của hợp tác xã không chỉ là kinh tế và lợi nhuận mà còn là việc cải thiện đời sống tinh thần, nâng cao trình độ văn hoá và năng lực, trình độ của các thành viên, là việc bảo đảm an sinh xã hội cho các thành viên.

Thứ ba, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân.

Bộ luật Dân sự quy định một tổ chức có tư cách pháp nhân được thể hiện ở bốn dấu hiệu. hợp tác xã có đầy đủ bốn dấu hiệu này, đó là hợp tác xã được thành lập một cách hợp pháp khi đăng ký kinh doanh ở UBND cấp huyện và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; hợp tác xã có cơ cấu tổ chức chặt chẽ khi thành lập các cơ quan quản lý, điều hành và kiểm soát (như đại hội thành viên, hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc, ban kiểm soát...); hợp tác xã có tài sản độc lập với các cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác; hợp tác xã cũng nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể là nguyên đơn, bị đơn trước các cơ quan tài phán như Toà án, trọng tài thương mại.

Ngoài ra, hợp tác xã có một số đặc trưng khác với các loại hình doanh nghiệp khác ở chỗ tư cách thành viên hợp tác xã không được quyết định bởi quy mô, độ lớn của số vốn mà các thành viên góp vào hợp tác xã mà bởi chính bản thân các thành viên đó. Dù đóng góp vốn nhiều hay ít, mỗi thành viên cũng chỉ có một phiếu biểu quyết. Điều này khác hẳn cơ chế dân chủ ở đa số các loại hình doanh nghiệp khác, đó là cơ chế dân chủ theo cổ phần: Thành viên càng có nhiều cổ phần thì càng có nhiều phiếu biểu quyết, càng có cơ hội được bầu vào các cơ quan quản lý, điều hành và kiểm soát của doanh nghiệp đó.

Trong hợp tác xã cũng có một loại tài sản đặc biệt, đó là tài sản thuộc sở hữu tập thể và không được chia. Tài sản không chia là một bộ phận tài sản của hợp tác xã không được chia cho thành viên của hợp tác xã khi chấm dứt tư cách thành viên hoặc khi hợp tác xã chấm dứt hoạt động, ví dụ như trụ sở, kho tàng, nhà văn hoá, hệ thống đường giao thông, đường điện, truyền thanh... Những tài sản này được hình thành từ quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi của hợp tác xã, được Nhà nước hay các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ, tặng cho... hợp tác xã.

Thứ tư, hợp tác xã được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Các hợp tác xã có tư cách pháp nhân, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc hoạch định quy hoạch, kế hoạch sản xuất, kinh doanh và làm dịch vụ. hợp tác xã có quyền chủ động trong việc huy động vốn, kết nạp, khai trừ thành viên, kí kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế, tự chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn và tài sản của hợp tác xã. Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có thể giúp đỡ, hỗ trợ cho hợp tác xã về vật chất và tinh thần, nhưng không chịu trách nhiệm thay cho các hợp tác xã.

Hoạt động của hợp tác xã nhằm mục đích chủ yếu là hỗ trợ, phục vụ lợi ích kinh tế của cá nhân các thành viên và lợi ích chung của tập thể, đồng thời coi trọng các lợi ích xã hội của cộng đồng dân cư. Hiệu quả hoạt động của hợp tác xã được đánh giá không chỉ về mặt kinh tế, lợi nhuận đạt được, mà còn cả về mặt nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật, bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống tinh thần cho các thành viên.

Quyền tự chủ của hợp tác xã được thể hiện qua việc các hợp tác xã có các quyền cơ bản như: Thực hiện mục tiêu hoạt động của hợp tác xã; tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của mình; quyết định tổ chức quản lý và hoạt động của hợp tác xã; thuê và sử dụng lao động theo nhu cầu; tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm theo ngành, nghề đã đăng ký nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên hợp tác xã; cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm cho thành viên hợp tác xã và ra thị trường nhưng phải bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với thành viên hợp tác xã; kết nạp mới, chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã; tăng, giảm vốn điều lệ trong quá trình hoạt động; góp vốn, mua cổ phàn, thành lập doanh nghiệp nhằm mục tiêu hỗ trợ hoạt động của hợp tác xã; thực hiện việc phân phối thu nhập, xử lí các khoản lỗ, khoản nợ của hợp tác xã và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã được thể hiện qua việc các hợp tác xã có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ: (i) Hoạt động đúng ngành, nghề đã đăng ký; (ii) Thực hiện quy định của pháp luật về tài chính, thuế, kế toán, kiểm toán, thống kê; (iii) quản lý, sử dụng vốn, tài sản và các quỹ của hợp tác xã theo quy định của pháp luật; (iv) quản lý, sử dụng đất và tài nguyên khác được Nhà nước giao hoặc cho thuê theo quy định của pháp luật; (v) Ký kết và thực hiện hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chính sách khác cho người lao động theo quy định của pháp luật; (vi) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, hợp tác xã thực hiện việc phân phối thu nhập cho các thành viên theo lao động, theo vốn góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.

Nguồn vốn cơ bản và chủ yếu phục vụ hoạt động kinh doanh của hợp tác xã là do các thành viên đóng góp khi họ gia nhập hợp tác xã. Do đó, thành viên đóng góp nhiều vốn vào hợp tác xã đương nhiên được hợp tác xã phân. phối thu nhập nhiều hơn thành viên đóng góp ít vốn vào hợp tác xã.

Có nhiều loại hình hợp tác xã khác nhau. Có loại hợp tác xã tạo việc làm, sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá hữu hình, bán ra thị trường và thu về lợi nhuận. Do vậy, các khoản thu nhập và lợi nhuận của hợp tác xã được phân phối cho các thành viên trên cơ sở số lượng và chất lượng lao động mà các thành viên đã thực hiện trong hợp tác xã. Có hợp tác xã làm dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên (nhu bán giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, tưới tiêu nước, phòng trừ sâu bệnh, cung cấp điện, nước...). Có hợp tác xã huy động tiền gửi tiết kiệm từ các thành viên (hợp tác tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân). Thu nhập của các loại hình hợp tác xã này có được từ việc bán hàng hoá, sản phẩm hoặc thu phí sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Các thành viên càng mua nhiều hàng hoá, sử dụng nhiều dịch vụ của hợp tác xã thì càng tạo ra nhiều lợi nhuận cho hợp tác xã.

Do vậy, phương thức cũng như nguyên tắc phân phối thu nhập của hợp tác xã là phân phối thu nhập cho các thành viên theo lao động, theo vốn góp và theo việc sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Phương thức và nguyên tắc phân phối thu nhập này của hợp tác xã cũng phân biệt với phương thức và nguyên tắc phân phối thu nhập trong các loại hình doanh nghiệp khác, nơi mà thu nhập và lợi nhuận có được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được phân phối chủ yếu theo cổ phần mà các thành viên đã đóng góp vào doanh nghiệp.

Thứ sáu, hợp tác xã được hưởng các chính sách bảo đảm, hỗ trợ và ưu đãi của Nhà nước.

hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Mục đích và sứ mạng của hợp tác xã là giúp đỡ, hỗ trợ cho những người lao động, các hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn về kinh tế, nên nhiều Nhà nước trên thế giới cũng như Nhà nước Việt Nam áp dụng các chính sách đặc biệt để tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã có cơ hội được thành lập và phát triển. V.I. Lênin đã từng nói: “về mặt chính trị, cần làm thế nào để chẳng những các hợp tác xã, nói chung và luôn luôn được hưởng một số ưu đãi, mà số ưu đãi này còn phải là những ưu đãi thuần tuý vật chất (tỉ suất tiền lời trả cho ngân hàng V.V.). Phải cho chế độ hợp tác xã hưởng một số những đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân hàng; sự ủng hộ mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta mang lại cho nguyên tắc tổ chức mới của dân cư phải là như vậy.

Quán triệt quan điểm của các nhà tư tưởng về hợp tác xã, đúc kết kinh nghiệm tổ chức phong trào hợp tác xã hàng chục năm qua, Nhà nước Việt Nam đã đề ra những chính sách rất cụ thể về bảo đảm, hỗ trợ và ưu đãi đối với các hợp tác xã. Đây cũng chính là một điểm rất rõ nét để phân biệt hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Sự bảo đảm của Nhà nước Việt Nam đối với các hợp tác xã được thể hiện ở những điểm sau:

(i) Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của hợp tác xã. Trường hợp Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của hợp tác xã vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc lợi ích quốc gia thì được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản.

(ii) Bảo đảm môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng giữa hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác.

(iii) Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và không can thiệp vào hoạt động hợp pháp của hợp tác xã.

Bên cạnh đó, Nhà nước còn cam kết thực hiện những sự hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, hỗ trợ ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội...

Nhà nước còn cam kết thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật về thuế, ưu đãi lệ phí đăng ký hợp tác xã theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.

Các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài việc được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi như đối với tất cả các hợp tác xã khác, còn được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt của Nhà nước như: Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã theo quy định của pháp luật về đất đai; ưu đãi về tín dụng; vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; chế biến sản phẩm.  

2- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã

Với lịch sử gần 200 năm hình thành và phát triển của các hợp tác xã, ICA đã tổng kết và xác định 07 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là: (i) Thành viên tự nguyện và mở rộng; (ii) Kiểm tra dân chủ bởi các thành viên; (iii) Sự tham gia kinh tế của xã viên hợp tác xã; (iv) Độc lập và tự chủ; (v) Giáo dục, đào tạo và thông tin; (vi) Sự hợp tác giữa các hợp tác xã; và (vii) Quan tâm đến cộng đồng.

Quán triệt và cụ thể hoá các nguyên tắc tổ chức và hoạt động trên của phong trào hợp tác xã thế giới, các nhà làm luật của Việt Nam đã đề ra 07 nguyên tắc của việc tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã ở Việt Nam trong Luật hợp tác xã. Đó là:

(ì) Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi hợp tác xã.

Các hợp tác xã được thành lập và hoạt động trước hết là nhằm giúp đỡ, hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ của những người lao động, của các hộ gia đình, của các pháp nhân ờ thành thị và nông thôn có những hạn chế về vốn, tư liệu sản xuất và tài sản, đất đai. Sự giúp đỡ, hỗ trợ của hợp tác xã có tác dụng cải thiện các điều kiện sống và làm việc của người lao động, bảo đảm nâng cao mức sống cũng như an sinh xã hội cho các cá nhân, hộ gia đình và các pháp nhân.

Hiệu quả kinh tế - xã hội của phương thức sản xuất, kinh doanh tập thể trong hợp tác xã, những ưu việt của hoạt động giúp đỡ, tương trợ của hợp tác xã đối với quá trình sản xuất, kinh doanh của các cá nhân, hộ gia đình hoặc các pháp nhân tạo ra sức hút đối với người lao động, các hộ gia đình và các pháp nhân. Tự họ sẽ quyết định việc nên gia nhập hay không nên gia nhập hợp tác xã. Mặt khác, sau một thời gian tham gia vào sản xuất, kinh doanh chung trong hợp tác xã, nếu thấy hiệu quả kinh tế - xã hội mà hợp tác xã đem lại không như mong muốn, người lao động, các hộ gia đình hay các pháp nhân cũng có quyền ra khỏi hợp tác xã. Đó là một quyền hoàn toàn chính đáng của người lao động, của các hộ gia đình và của các pháp nhân.

Như vậy, việc gia nhập hợp tác xã hoặc ra khỏi hợp tác xã là do người lao động, các hộ gia đình, các pháp nhân hoàn toàn tự nguyện. Các cơ quan nhà nước hoặc bất cứ cá nhân, tổ chức nào đều không có quyền ép buộc người lao động, các hộ gia đình hoặc các pháp nhân phải gia nhập hay buộc họ phải ra khỏi hợp tác xã. V.L Lênin đã từng nhấn mạnh rằng: "Công xã nông nghiệp được thiết lập nên một cách tự nguyện. Việc chuyển sang lối canh tác chung ruộng đất chỉ có thể thực hiện được do tinh thần tự nguyện mà thôi, về mặt này, Chính phủ công nông không thể dùng một biện pháp cưỡng chế nào. Pháp luật cấm dùng biện pháp đó”.

(ii) hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên.

Quyền có việc làm và thu nhập tương xứng với sức lao động đã bỏ ra, quyền được mưu cầu hạnh phúc là một quyền chính đáng của con người, của mỗi công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật khác. hợp tác xã là tổ chức kinh tế của những người lao động, của các hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có những khó khăn về vốn, tài sản... nên việc kết nạp thành viên của hợp tác xã không bị giới hạn bởi giới tính, địa vị xã hội, chủng tộc, dân tộc hay tôn giáo. Người lao động từ đủ 18 tuồi trở lên, nếu có vốn, có tài sản, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không đang chịu trách nhiệm hình sự, không bị tước quyền công dân, không bị tập trung cải tạo, giáo dục, không bị cấm đảm nhiệm chức vụ theo quyết định của Toà án trong các vụ phá sản hoặc chống tham nhũng; các hộ gia đình, các pháp nhân, nếu hiểu rõ và chấp nhận điều lệ, nội quy của hợp tác xã, có nguyện vọng được tham gia sản xuất, kinh doanh theo phương thức tập thể, thì đều có thể được hợp tác xã kết nạp làm thành viên hợp tác xã.

Việc hợp tác xã kết nạp rộng rãi những người lao động, các hộ gia đình và các pháp nhân đủ điều kiện là thành viên của hợp tác xã có tác dụng thu hút được nhiều nguồn lực từ xã hội cho sự ổn định, vững mạnh và phát triển liên tục của hợp tác xã.

(Ui) Thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vẩn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ.

Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế vừa đối nhân vừa đối vốn. hợp tác xã vừa quan tâm đến nhân thân của người lao động, năng lực của các hộ gia đình và của các pháp nhân muốn gia nhập hợp tác xã, vừa phân phối thu nhập theo số vốn mỗi thành viên đã đóng góp, lao động họ đã làm được và mức độ họ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Chế độ quản lý nội bộ hợp tác xã được thực hiện bởi cơ chế dân chủ rộng lớn nhất trong số các loại hình tổ chức kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành viên hợp tác xã có quyền bình đẳng, có quyền biểu quyết ngang nhau (mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết) không phụ thuộc vào số vốn góp của mỗi thành viên trong việc quyết định các vấn đề về tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã.

Đe tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên đóng góp sáng kiến, vật lực, năng lực cũng như khả năng của họ vào quá trình sản xuất, kinh doanh tập thể, hợp tác xã có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định trong điều lệ của hợp tác xã.

(iv) hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.

hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể có tư cách pháp nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Nhà nước xây dựng những chính sách và hệ thống pháp luật tạo thuận lợi và khuyến khích các hợp tác xã tự chủ và năng động trong hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh tập thể, đem lại các lợi ích thiết thực và hiệu quả kinh tế cao cho tập thể cũng như cho mỗi thành viên của hợp tác xã, đóng góp ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước, cải thiện đời sống và môi trường sống của cộng đồng dân cư.

Bên cạnh việc được hưởng các điều kiện thuận lợi cho việc tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, các hợp tác xã cũng phải tự chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ của mình trước Nhà nước và trước pháp luật. Điều đó có nghĩa là hợp tác xã có quyền tự do, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, nhưng đồng thời cũng phải hoạt động trên cơ sở và trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. hợp tác xã không được sản xuất, kinh doanh những ngành nghề bị pháp luật nghiêm cấm, không được trốn lậu thuế, không được tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, không được làm ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội. Neu vi phạm pháp luật về hành chính, về kinh tế..., hợp tác xã phải chịu trách nhiệm vật chất và hành chính trước các cơ quan tài phán như Toà án và trọng tài kinh tế.

(v) Thành viên hợp tác xã và hợp tác xã có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ. Thu nhập của hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm.

hợp tác xã kết nạp một cách rộng rãi người lao động, các hộ gia đình và các pháp nhân làm thành viên của hợp tác xã, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, năng lực kinh tế... của họ, nếu họ thỏa mãn một số điều kiện nhất định và chấp nhận điều lệ, nội quy, quy chế của hợp tác xã. Do đó, khi đã trở thành thành viên của hợp tác xã, mọi người lao động, các hộ gia đình và các pháp nhân có nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện các cam kết, các hợp đồng dịch vụ đã ký kết với hợp tác xã và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định trong điều lệ, nội quy của hợp tác xã. Điều đó bảo đảm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh tập thể của hợp tác xã được phát triển đúng hướng, hợp tác xã được tiếp thêm các nguồn lực cần thiết để đạt được các mục tiêu theo định hướng và kế hoạch đã đề ra.

Trong hợp tác xã, các khoản thu nhập, lợi nhuận có được từ nhiều nguồn khác nhau: từ việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá, từ việc cung cấp các dịch vụ cho các thành viên và các hộ gia đình, các pháp nhân là thành viên của hợp tác xã. Do vậy, nếu các thành viên hợp tác xã thực hiện được nhiều ngày công lao động với năng suất, chất lượng cao, sản xuất ra nhiều hàng hoá, sản phẩm, sử dụng nhiều dịch vụ do hợp tác xã cung ứng (như bán giống cây trồng, vật nuôi, bán phân bón, thuốc trừ sâu, cung cấp điện, nước...) thì càng góp phần tăng thu nhập và lợi nhuận cho hợp tác xã. Từ đó, thu nhập và lợi nhuận của hợp tác xã sẽ được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, theo khoản vốn mà họ đã đóng góp vào hợp tác xã và theo công sức lao động mà thành viên đã đóng góp vào hợp tác xã tạo việc làm.

(vi)    hợp tác xã quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho thành viên hợp tác xã, cán bộ quản lý, người lao động trong hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích của hợp tác xã.

Một đặc điểm thể hiện tính xã hội và nhân văn sâu sắc của hợp tác xã, làm cho mô hình hợp tác xã khác hẳn các loại hình doanh nghiệp khác, là ngoài việc thực hiện việc sản xuất, kinh doanh theo phương thức tập thể để tạo được thu nhập và lợi nhuận, hợp tác xã còn rất quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục văn hoá, đào tạo chuyên môn và bồi dưỡng nghiệp vụ cũng như cải thiện đời sống văn hoá, tinh thần cho các thành viên hợp tác xã và cộng đồng dân cư. Nhiều hợp tác xã đã xây dựng nhà văn hoá, thư viện, lớp mẫu giáo, trung tâm thể dục thể thao, hệ thống điện, nước, truyền thanh... để cải thiện đời sống văn hoá, tinh thần cho các thành viên và cộng đồng dân cư tại địa phương. Nhiều hợp tác xã cũng đã sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ sở văn hoá, giáo dục ở địa phương và của hợp tác xã để thông tin, tuyên truyền rộng rãi trong dân cư về bản chất, tính ưu việt của phương thức sản xuất, kinh doanh tập thể của hợp tác xã để thu hút thêm người lao động, các hộ gia đình và các doanh nghiệp khác vào hợp tác xã.

(vii)    hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững cộng đồng thành viên hợp tác xã và họp tác với nhau nhằm phát triển phong trào hợp tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.

hợp tác xã là mô hình tổ chức kinh tế rất phù hợp với năng lực và nguyện vọng của nhiều người lao động, nhiều hộ gia đình và nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ở thành thị và nông thôn. Cáchợp tác xã cũng đã và đang có những đóng góp ngày càng to lớn vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy kinh nghiệm của các thành viên hợp tác xã trong việc tổ chức, điều hành hoạt động của hợp tác xã cũng khác nhau, nên phong thể giống nhau. Các kinh nghiệm tốt, các thành công, các điển hình tiên tiến trong việc tổ chức, hoạt động của hợp tác xã ở các địa phương, các vùng, các nước cần được phổ biến rộng rãi và chia sẻ một cách thường xuyên, liên tục.

Do vậy, việc chăm lo phát triển bền vững cộng đồng thành viên hợp tác xã và hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào hợp tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của các hợp tác xã.

Trong giai đoạn mới, nếu phong trào hợp tác xã ở Việt Nam tiếp tục thực hiện được đầy đủ và đúng đắn 07 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã nêu trên, chắc chắn các hợp tác xã ở Việt Nam sẽ ngày càng ổn định và phát triển sâu rộng, góp phần tích cực và ngày càng to lớn vào quá trình tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho các hộ gia đình, các doanh nghiệp thành viên và cải thiện ngày càng tốt hơn các điều kiện sống và làm việc cho các thành viên hợp tác xã cũng như đóng góp ngày càng to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

II. THÀNH LẬP, GIẢI THỂ HỢP TÁC XÃ

1. Thành lập hợp tác xã

Để thành lập nên hợp tác xã, điều cần thiết đầu tiên là phải có các sáng lập viên. Sáng lập viên hợp tác xã là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện cam kết sáng lập, tham gia thành lập hợp tác xã. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các sáng lập viên là tiến hành việc vận động, tuyên truyền cho việc thành lập hợp tác xã. Các sáng lập viên cũng cần xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh, xây dựng dự thảo điều lệ của hợp tác xã cũng như thực hiện các công việc cần thiết để tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã.

Việc quan trọng tiếp theo của các sáng lập viên là tiến hành triệu tập và tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã. Thành phần tham gia hội nghị thành lập hợp tác xã bao gồm các sáng lập viên là cá nhân, người đại diện hợp pháp của sáng lập viên; người đại diện hợp pháp của hộ gia đình, pháp nhân và cá nhân khác có nguyện vọng gia nhập hợp tác xã. Hội nghị thành lập hợp tác xã sẽ tiến hành thảo luận về dự thảo điều lệ, phương án sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã và dự kiến danh sách thành viên hợp tác xã. Sau khi bàn bạc và thảo luận một cách thiết thực và thật sự dân chủ, hội nghị thành lập hợp tác xã sẽ tiến hành việc thông qua điều lệ của hợp tác xã. Những người tán thành điều lệ và đủ điều kiện theo quy định của Luật hợp tác xã thì trở thành thành viên của hợp tác xã.

Sau khi thông qua điều lệ của hợp tác xã, các thành viên của hợp tác xã sẽ tiếp tục thảo luận và quyết định các vấn đề như phương án sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã, bầu hội đồng quản trị và chủ tịch hội đồng quản trị, quyết định việc lựa chọn giám đốc (tổng giám đốc) trong số các thành viên hoặc thuê giám đốc (tổng giám đốc), bầu ban kiểm soát, trưởng ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các nội dung khác có liên quan đến việc thành lập và tổ chức, hoạt động của hợp tác.

Khi thành lập, hợp tác xã phải tiến hành đăng ký tại cơ quan đăng ký hợp tác xã - nơi hợp tác xã dự định thành lập đặt trụ sở chính. hợp tác xã đăng ký tại phòng tài chính - kế hoạch thuộc UBND cấp huyện, còn quỹ tín dụng nhân dân đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương.

Về trình tự đăng ký hợp tác xã, pháp luật quy định như sau:

Người đại diện hợp pháp của hợp tác xã dự định thành lập nộp 01 bộ hồ sơ đăng ký hợp tác xã đến cơ quan đăng ký hợp tác xã và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký hợp tác xã. hợp tác xã có thể gửi hồ sơ đăng ký qua địa chỉ thư điện tử của cơ quan đăng ký hợp tác xã nhưng phải nộp hồ sơ bằng văn bản khi đến nhận giấy chứng nhận đăng ký để đối chiếu và lưu hồ sơ.

Cơ quan đăng ký hợp tác xã phải trao hoặc gửi giấy biên nhận khi hồ sơ đăng ký đã bảo đảm tính hợp lệ theo quy định của pháp luật và không được yêu cầu hợp tác xã nộp thêm bất kì giấy tờ nào khác. Cơ quan đăng ký hợp tác xã cấp giấy chứng nhận đăng ký cho hợp tác xã trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, nếu đáp ứng đủ điều kiện quy định tại Luật hợp tác xã. Trong trường hợp từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký thì cơ quan đăng ký hợp tác xã phải thông báo bằng văn bản hoặc thư điện tử nêu rõ lý do cho hợp tác xã biết trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ.

2. Giải thể hợp tác xã

Luật hợp tác xã quy định hai trường hợp giải thể hợp tác xã, đó là giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc.

Trường hợp hợp tác xã giải thể tự nguyện, thủ tục giải thể được tiến hành theo trình tự sau:

(i) hợp tác xã tiến hành đại hội thành viên và ra nghị quyết về việc giải thể tự nguyện;

(ii) Đại hội thành viên của hợp tác xã thành lập và quy định trách nhiệm, quyền hạn, thời hạn hoạt động của hội đồng giải thể với các thành phần, số lượng thành viên theo quy định tại Luật hợp tác xã;

(iii) Hội đồng giải thể có trách nhiệm thực hiện các công việc được quy định tại Luật hợp tác xã trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đại hội thành viên ra nghị quyết về việc giải thể tự nguyện và lập biên bản hoàn thành việc giải thể.

Trong trường hợp hợp tác xã bị giải thể bắt buộc thuộc một trong các trường hợp quy định tại Luật hợp tác xã, thủ tục giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã được tiến hành như sau:

(i) Cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký cho hợp tác xã lập và trình hồ sơ giải thể bắt buộc tới UBND cùng cấp;

(ii) UBND ra quyết định giải thể và thành lập hội đồng giải thể. Chủ tịch hội đồng giải thể là đại diện của UBND; ủy viên thường trực là đại diện của cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký; ủy viên khác là đại diện của cơ quan nhà nước chuyên ngành cùng cấp, tổ chức đại diện, liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (nếu hợp tác xã là thành viên của tổ chức đại diện, liên minh), UBND xã, phường, thị trấn nơi hợp tác xã đóng trụ sở, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hoặc kiểm soát viên, thành viên;

(iii) Hội đồng giải thể có trách nhiệm thực hiện các công việc được quy định tại Luật hợp tác xã trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải thể bắt buộc và lập biên bản hoàn thành việc giải thể;

(iv) Kinh phí giải thể được lấy từ các nguồn tài chính còn lại của hợp tác xã. Trường hợp không đủ thì sử dụng nguồn tài chính từ ngân sách địa phương cùng cấp với cơ quan đăng ký hợp tác xã.

Ngay sau khi hoàn thành việc giải thể hợp tác xã, hội đồng giải thể phải gửi một bộ hồ sơ về việc giải thể hợp tác xã kèm theo biên bản hoàn thành việc giải thể tới cơ quan đăng ký hợp tác xã.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan đăng ký hợp tác xã tiến hành xem xét hồ sơ, nếu thấy đủ điều kiện thì xoá tên hợp tác xã trong sổ đăng ký, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của hợp tác xã, ra thông báo về việc giải thể hợp tác xã.

III- LIÊN HIỆP HỢP TÁC XÃ VÀ LIÊN MINH HỢP TÁC XÃ

1. Liên hiệp hợp tác xã

Trong nền kinh tế nhiều thành phần được vận hành theo cơ chế thị trường, với định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước quy định chiều cơ chế, tạo lập nhiều mô hình tổ chức kinh tế thích hợp với khả năng, năng lực, tiềm năng, nguồn vốn, trình độ, kinh nghiệm... của các nhà đầu tư, của người lao động, của các pháp nhân. Điều đó tạo ra điều kiện thuận lợi cho họ phát huy đến mức tối đa năng lực và khả năng của họ, làm cho các tổ chức kinh tế đó phát triển bền vững và ngày càng lớn mạnh, đem lại nhiều lợi ích cho tập thể và cộng đồng xã hội. Các quy định về liên hiệp hợp tác xã trong Luật hợp tác xã và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành đã thể hiện ý tưởng trên của Nhà nước Việt Nam.

Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của các hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp hợp tác xã. Việc pháp luật quy định ít nhất 04 hợp tác xã mới được thành lập một liên hiệp hợp tác xã và vốn góp của hợp tác xã thành viên thực hiện theo thỏa thuận và theo quy định của điều lệ liên hiệp hợp tác xã, nhưng không quá 30% vốn điều lệ của liên hiệp hợp tác xã là nhằm bảo đảm cho liên hiệp hợp tác xã vẫn có đủ nguồn vốn để tiếp tục sản xuất, kinh doanh bình thường, nếu như có một hợp tác xã xin ra khỏi liên hiệp hợp tác xã và mang theo không quá 30% vốn điều lệ của liên hiệp hợp tác xã.

hợp tác xã muốn trở thành thành viên của liên hiệp hợp tác xã phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện như: (i) Có nhu cầu hợp tác với các hợp tác xã thành viên và có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của liên hiệp hợp tác xã; (ii) Có đơn tự nguyện gia nhập và tán thành điều lệ của liên hiệp hợp tác xã; (iii) Góp vốn theo quy định tại Luật hợp tác xã và điều lệ liên hiệp hợp tác xã; (iv) Các điều kiện khác theo quy định của điều lệ liên hiệp hợp tác xã.

Một hợp tác xã có thể là thành viên của nhiều liên hiệp hợp tác xã, trừ trường hợp điều lệ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quy định khác.

Tất cả các quy định về thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý điều hành, chế độ pháp lý về thành viên, tổ chức lại, giải thể, phá sản... được quy định đối với hợp tác xã thì đều được áp dụng đối với liên hiệp hợp tác xã.

2. Liên minh hợp tác xã

Là tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã do các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự nguyên thành lập nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có thể được tổ chức theo ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ; được tổ chức, hoạt động theo quy định của pháp luật về hội và pháp luật có liên quan.

Theo quy định của Luật hợp tác xã, tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là liên minh hợp tác xã. Liên minh hợp tác xã Việt Nam được thành lập ở trung ương; liên minh hợp tác xã cấp tỉnh được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Điều lệ liên minh hợp tác xã Việt Nam được đại hội liên minh hợp tác xã Việt Nam thông qua và do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; điều lệ liên minh hợp tác xã cấp tỉnh được đại hội liên minh hợp tác xã cấp tỉnh thông qua và do Chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt.

Với vai trò là tổ chức đại diện cho các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã, liên minh hợp tác xã có nghĩa vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quy định tại Luật hợp tác xã.

Nhà nước cam kết sẽ có những hoạt động cụ thể, thiết thực nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để liên minh hợp tác xã thực hiện tốt các hoạt động được giao.

Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Thương mại 1 - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).

0 bình luận, đánh giá về Khái quát về hợp tác xã

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.32440 sec| 1156.289 kb