Ngành Luật hành chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam

"Nơi không có quyền lực cộng đồng thì không có pháp luật, nơi không có pháp luật thì không có gì gọi là công bằng".

Oliver Wendell Holmes, 1809 - 1894, là bác sỹ, nhà thơ, học giả người Mỹ.

Ngành Luật hành chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Luật hành chính là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước.

Luật hành chính Việt Nam điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Những quan hệ này còn gọi là những quan hệ chấp hành - điều hành.

Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính Việt Nam là phương pháp mệnh lệnh được hình thành từ quan hệ “quyền lực - phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước đưa ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng mệnh lệnh đó.

Liên hệ

I- KHÁI LƯỢC VỀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hoạt động quản lý hành chính nhà nước không thể tách rời những quan hệ xã hội mà nó hướng tới nhằm ổn định hay thay đổi cho nên phần lớn các quy phạm pháp luật hành chính liên quan đến các hình thức tổ chức, đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước bắt nguồn từ những quan hệ xã hội.

Luật hành chính là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước.

1- Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính

Luật hành chính Việt Nam điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Những quan hệ này còn gọi là những quan hệ chấp hành - điều hành hoặc những quan hệ quản lý hành chính nhà nước.
Các quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hành chính được chia thành ba (03) nhóm sau:

Thứ nhất, các quan hệ phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; chủ yếu là những quan hệ:

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp hoặc với cơ quan chuyên môn trực thuộc nó

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp tỉnh nhằm thực hiện chức năng theo pháp luật

- Giữa những cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương, cơ quan này có một số quyền hạn đối với cơ quan kia trong lĩnh vực quản lý chức năng nhất định song giữa các cơ quan đố không có sự lệ thuộc về mặt tổ chức.

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đối với các đơn vị thuộc trung ương đóng tại địa phương đó

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị cơ sở trực thuộc

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch

Thứ hai, các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. 

Thứ ba, các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cá nhân và tổ chức được Nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định. Hoạt động trao quyền được tiến hành trên cơ sở những lý do khác nhau: chính trị, tổ chức, đảm bảo hiệu quả... Vì vậy hoạt động quản lý hành chính nhà nước không chỉ do các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành.

2- Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính

Phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính Việt Nam là phương pháp mệnh lệnh được hình thành từ quan hệ “quyền lực - phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước đưa ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng mệnh lệnh đó. Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước là sự không bình đẳng về ý chí và được thể hiện rõ nét ở những điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí của mình lên đối tượng quản lý. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt ý chí của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trong những trường hợp khác nhau được thực hiện trong nhiều trường hợp khác nhau:

- Một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực hiện. Phía bên kia có nghĩa vụ thực hiện các quy định , mệnh lệnh của cơ quan có thẩm quyền.

- Một bên có quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có quyền xem xét, giải quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ yêu cầu, kiến nghị đó. 

- Cả hai bên đều có quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết định điều gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phối hợp quyết định.

Thứ hai, một bên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lý phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Các trường hợp này được pháp luật quy định cụ thể nội dung và giới hạn

- Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước luôn thể hiện rõ nét, xuất phát từ quy định pháp luật, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia quan hệ đó.

- Sự không bình đẳng giữa các bên là cơ quan trong bộ máy nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, các tổ chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân khác bắt nguồn từ quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ “Quyền lực – phục tùng”. Trong các quan hệ đó, cơ quan hành chính nhà nước nhân danh nhà nước để thực hiện chức năng chấp hành - điều hành trong lĩnh vực được phân công phụ trách.

- Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước còn được thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính. Tính bắt buộc thi hành của các quyết định hành chính đơn phương được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, các quyết định hành chính đơn phương không phải bao giờ cũng được thực hiện trên cơ sở cưỡng chế mà chủ yếu thông qua pháp thuyết phục.

Tóm lại, phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh đơn phương. Phương pháp này được xây dựng trên nguyên tắc:

- Xác nhận sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước: một bên được nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để đưa ra các quyết định hành chính, còn bên kia phải phục tùng những quyết định ấy;

- Bên nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước có quyền đơn phương ra quyết định trong phạm vi thẩm quyền của mình vì lợi ích của nhà nước, của xã hội. Quyết định đơn phương của bên có quyền sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên hữu quan và được bảo đảm thi hành bằng cưỡng chế nhà nước;

- Quyết định đơn phương của bên có quyền sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên hữu quan và được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế nhà nước.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hành chính của Công ty Luật TNHH Everest

II- CHỨC NĂNG CỦA NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH

1- Chức năng quản lý nhà nước

Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được đặt dưới sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước nhưng vẫn mang tính chủ động, sáng tạo. Tính chủ động, sáng tạo của hoạt động quản lí hành chính nhà nước thể hiện rõ nét trong quá trình các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước dề ra chủ trương, biện pháp quản lý thích hợp đối với các đối tượng khác nhau, tạo điều kiện cho họ lựa chọn cách thức tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ trên cơ sở nghiên cứu, xem xét tình hình cụ thể.

2- Chức năng xử lý quan hệ quản lý nhà nước

Chức năng xử lý các quan hệ quản lý nhà nước phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

Nhóm quan hệ xã hội này là đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành chính. Thông qua việc thiết lập những quan hệ loại này các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng cơ bản của mình. Những quan hê loại này rất phong phú, chù yếu là những quan hệ:

(i) Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị cơ sở trực thuộc 

(ii) Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế này được đặt dưái sự quản lý thường xuyên của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền 

(iii) Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội 

(iv) Giữa cơ quan hành chính nhà nước vói công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch

(v) Chức năng xử lý các quan hệ quản lý 

Chức năng xử lý các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tấc nội bộ của cơ quan nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Mỗi loại cơ quan nhà nước có chức năng cơ bản riêng và để hoàn thành chức năng cơ bản của mình các cơ quan nhà nước phải tiến hành những hoạt động quản lý hành chính nhất định. 

Để cơ quan nhà nước có thể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, hoạt động quản lý nội bộ cần được tổ chức tốt, đặc biệt là những hoạt động như kiểm tra nội bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công chức, phối hợp hoạt động giữa các bộ phân của cơ được uỷ quyền lập pháp và tiến hành hoạt động tài phán trong những trường hợp nhất định.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest

III- CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH

1- Các nguyên tắc chính trị - xã hội 

(i) Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước;

(ii) Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước;

(iii) Nguyên tắc tập chung dân chủ;

(iv) Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc;

(v) Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;

2- Các nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật

(i) Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp quản lý theo địa phương;

(ii) Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và phối hợp quản lý liên ngành.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư thu hồi đất của Công ty Luật TNHH Everest

IV- NGUỒN CỦA LUẬT HÀNH CHÍNH

Nguồn của luật hành chính là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục và dưới những hình thức nhất định, có nội dung là các quy phạm pháp luật hành chính, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các đối tượng có liên quan và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.

Chỉ có những văn bản quy phạm pháp luật mới tạo ra tiền đề cần thiết cho việc thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa - một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước. 

Phần lớn và là phần quan trọng trong nguồn của luật hành chính là những văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan quyền lực nhà nước và các cơ quan hành chính nhà nước ban hành trong phạm vi thẩm quyền của từng cơ quan. Tuy nhiên, cũng có những văn bản do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội phối hợp ban hành.

Những văn bản quy phạm pháp luật hành chính đều xuất phát từ một nguồn - đó là luật hiến pháp.

Căn cứ vào cơ quan ban hành, nguồn của luật hành chính gồm 06 loại:

(i) Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước (Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, …);

(ii) Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước;

(iii) Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước (Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, …);

(iv) Văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao);

(v) Văn bản quy phạm pháp luật của Tổng kiểm toán nhà nước;

(vi) Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực đất đai, bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest

V- HỆ THỐNG LUẬT HÀNH CHÍNH

Luật hành chính là một hệ thống thống nhất các quy phạm có quan hệ hữu cơ với nhau được chia thành hai phần là phần chung và phần riêng.

1- Phần chung của luật hành chính

Phần chung của luật hành chính gồm các nhóm quy phạm quy định:

- Những nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước;

- Địa vị pháp lý của cán bộ, công chức và hoạt động công vụ;

- Quy chế pháp lý hành chính của các tổ chức xã hội;

- Quy chế pháp lý hành chính của cá nhân;

- Trách nhiệm hành chính, thủ tục hành chính và tài phán hành chính;

- Những biện pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.

2- Phần riêng của luật hành chính

Phần riêng của luật hành chính gồm các nhóm quy phạm quy định về:

- Hoạt động quản lý chức năng như tài chính, kế hoạch, đầu tư, thống kê;

- Hoạt động quản lý ngành như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, văn hoá, giáo dục, quốc phòng, tư pháp.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực đầu tư của Công ty Luật TNHH Everest

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
4.1 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Ngành Luật hành chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
3.11348 sec| 1172.555 kb