Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam

17/05/2024
Minh Giáo
Minh Giáo
Từ điển tiếng Việt định nghĩa tranh tụng là sự kiện cáo nhau, tranh luận giữa hai bên có lập trường tương phản nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử.

1- Những nội dung của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xét về khía cạnh thuật ngữ pháp lý, tranh tụng được hiểu theo ba nội dụng khác nhau: thứ nhất “tranh tụng” là một mô hình tố tụng; thứ hai  “tranh tụng” là một nguyên tắc thuộc tố tụng hình sự; thứ ba “tranh tụng” là phương thức, là giai đoạn thực hiện vai trò của các chức năng đối lập nhau và có quyền ngang nhau trong tố tụng hình sự hay còn gọi là hoạt động tranh tụng. Bài viết này sẽ phân tích những nội dung và thực trạng thực về việc thực hiện nguyên tắc tranh trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay.Tranh tụng trong tố tụng là mô hình pháp lý của nền tư pháp hiện đại. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và các luật chuyên ngành của Nhà nước ta. Về bản chất, tranh tụng trong tố tụng hình là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà người đứng ra phân xử trong cuộc tranh đấu này chính là Tòa án.

Hiến pháp 2013 được thông qua tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội Việt Nam khóa XIII đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận chính thức trong một văn bản pháp lý của Nhà nước, cụ thể tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Bên cạnh Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiếp sau đó cũng tiếp tục ghi nhận và quy định cụ thể nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Nguyên tắc tranh tụng đã được Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định tại Điều 26, theo đó nguyên tắc tranh tụng đã được thể hiện qua một số vấn đề sau:

[a] Phạm vi của nguyên tắc tranh tụng

Theo Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, phạm vi của việc tranh tụng được xác định cả trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, trong các giai đoạn tố tụng tiền xét xử, nguyên tắc tranh tụng không được thể hiện rõ nét mà chỉ được thực hiện rõ nét nhất trong giai đoạn xét xử tại tòa án. Do đó, Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã lấy quá trình xét xử để đặt tên cho nguyên tắc tranh tụng nhưng nội hàm thực hiện lại quy định cho toàn bộ quy trình tố tụng.

[b] Chủ thể tranh tụng

Bản chất của hoạt động tranh tụng là sự tranh luận qua lại giữa bên buộc tội và bên bào chữa để tìm ra sự thật của vụ án. Vì vậy, Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cho phép các chủ thể buộc tội gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các chủ thể gỡ tội gồm: người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều được quyền tham gia vào quá trình tranh tụng. Còn Tòa án có nhiệm vụ là trọng tài xác định việc đánh giá chứng cứ của cả hai bên buộc tội và gỡ tội.

[c] Nội dung của nguyên tắc tranh tụng

Các bên tham gia tranh tụng đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Đây cũng là lần đầu tiên pháp luật quy định bị can, bị cáo, người bào chữa có quyền đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ do cơ quan tố tụng thu thập hoặc yêu cầu Tòa án thu thập. Tuy nhiên, việc thu thập chứng cứ được quy định trước đây chỉ do các cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu thực hiện như Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát....

Bên cạnh việc quy định quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ của các bên trong quan hệ tranh tụng, Điều 26 còn quy định: “Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa”. Bản chất của quá trình tranh tụng là mọi chứng cứ buộc tội và gỡ tội đều phải được đưa ra và tranh luận tại tòa. Do đó, tại phiên tòa là điều kiện tốt để quá trình tranh tụng được biểu hiện rõ nét nhất ở đó thể hiện sự tập trung nhất, cơ bản nhất của nguyên tắc tranh tụng.

Ngoài ra, nguyên tắc tranh tụng tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2025 còn có nội dung rất quan trọng khác, đó là “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Điều này có thể hiểu là kết quả tranh luận sẽ là căn cứ cho phán quyết của Tòa án. Việc tranh tụng chỉ là hình thức nếu kết quả tranh tụng không được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án. Hiện nay, nhiều quan điểm cho rằng, mô hình tố tụng hình sự của nước ta sau khi có Nghị quyết số 49/2005-NQ-TW của Bộ Chính trị và sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có sự chuyển biến rõ từ mô hình thẩm vấn sang kết hợp mô hình tố tụng tranh tụng.

Tuy nhiên, theo nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu thì mô hình tố tụng Việt Nam hiện hành chưa hẳn là mô hình tố tụng tranh tụng hoàn toàn mà là mô hình tố tụng hỗn hợp có sự đan xen giữa mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng. Do đó, thực tiễn xét xử thì phán quyết của tòa phải dựa trên cả hai yếu tố đó là kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chứ không hoàn toàn dựa vào kết quả tranh tụng như mô hình tố tụng tranh tụng.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư thu hồi đất của Công ty Luật TNHH Everest

2- Thực trạng về việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam

[a] Cơ cấu tổ chức bộ máy - nhân sự

Về người bào chữa: Việc ghi nhận quyền bào chữa và nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng tăng về số lượng và chất lượng của đội ngũ Luật sư với hơn 13.770 Luật sư đang hành nghề và hơn 5.000 Luật sư tập sự đang thực tập trên cả nước, trung bình mỗi năm tăng gần 1.000 Luật sư.

Thế nhưng, nếu so với quy mô dân số và các nước trên thế giới, tỷ lệ luật sư của Việt Nam vẫn còn quá ít. Tính trung bình mới đạt 7.000 dân/1 Luật sư. Do vậy, ít nhiều sẽ hạn chế đến nguyên tắc tranh tụng công bằng với nguyên nhân thiếu Luật sư tham gia ngay từ đầu vụ án lẫn trong quá trình xét xử. Ngoài việc thiếu về số lượng và sự phân bổ chưa đồng đều số lượng Luật sư giữa các vùng, mà chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn thì vấn đề năng lực và trình độ của Luật sư hiện tại cũng đang ảnh hưởng đến chất lượng xét xử.

Mặt khác, sự hạn chế tham gia của luật sư còn có nguyên nhân đến từ cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng không làm tròn nghĩa vụ của mình để đảm bảo cho bị can, bị cáo thực hiện được quyền có ng­ười bào chữa, thậm chí có trư­ờng hợp còn gây khó khăn cho Luật sư trong quá trình tham gia tố tụng. Những phiên tòa không có Luật sư bào chữa thì rõ ràng là việc tranh tụng diễn ra tẻ nhạt một chiều, bị cáo không có khả năng để tự bào chữa và bị áp đảo hoàn toàn so với bên buộc tội.

[b] Người tiến hành tố tụng

Năng lực của Thẩm phán, Kiểm sát viên cũng có vai trò rất lớn đến chất lượng của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, được thể hiện ở hai khía cạnh là trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm khi tham gia phiên tòa. Đối với Thẩm phán là kỹ năng điều khiển phiên tòa và Kiểm sát viên là kỹ năng tranh tụng, nhất là trong các trường hợp án sửa, huỷ là do việc nắm và vận dụng pháp luật của thẩm phán và kiểm sát viên”.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư giải quyết tranh chấp nhà đất (luật sư đất đai) của Công ty Luật TNHH Everest

3- Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự

[a] Quy định về người bào chữa

Thứ nhất, quy định người bào chữa được tham gia hỏi cung và lấy lời khai.Khoản b Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “... khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can...”. Luật cho phép người bào chữa được có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ nhưng trong quá trình hỏi cung nếu người bào chữa muốn hỏi bị can thì phải được sự đồng ý của người có thẩm quyền và luật cũng chưa quy định trường hợp nào người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý và trường hợp nào không đồng ý cho người bào chữa hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam dẫn đến sự tùy tiện của người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai. Chính việc hạn chế được hỏi trong quá trình lấy lời khai và hỏi cung ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình thu thập chứng cứ và tài liệu của người bào chữa và ảnh hưởng đến nguyên tắc tranh tụng trong quá trình này.

Thứ hai, quy định về sự có mặt của người bào chữa.Về nguyên tắc tranh tụng, bên buộc tội (Kiểm sát viên) thực hiện tranh tụng bình đẳng với bên bào chữa, nhưng tại Điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về sự có mặt của Kiểm sát viên, đó là trường hợp không có mặt của Kiểm sát viên thì phải hoãn phiên tòa, trong khi đó nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Quy định như vậy, vô hình trung, đề cao tầm quan trọng của bên buộc tội hơn bên bào chữa trong quá trình xét xử sẽ dẫn đến nguyên tắc tranh tụng không được thực hiện triệt để. Quy định như vậy tuy tiện lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng nhưng sẽ không bảo đảm đư­ợc các quyền lợi của công dân, đặc biệt là của bị cáo.

Thứ ba, về quy định người bào chữa: theo quy định tại Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì người bào chữa là Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; hoặc Bào chữa viên nhân dân… Chính quy định một số đối tượng cụ thể có thể tham gia bào chữa làm giới hạn thành phần được tham gia bào chữa.

[b] Quy định về Kiểm sát viên

Thứ nhất, quy định về quyền của Viện kiểm sát trong việc thực hiện kiểm sát việc xét xử. Khoản 1 Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Việc này ít nhiều sẽ làm cho Tòa án bị lệ thuộc theo quan điểm truy tố của Viện kiểm sát. Do đó, thiết nghĩ cần có cơ chế tách riêng nhiệm vụ công tố trước tòa và nhiệm vụ kiểm sát xét xử thành hai cơ quan độc lập.

Thứ hai, quy định người tiến hành tố hành tố tụng. Khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người tiến hành tố tụng gồm cả Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán. Theo nguyên tắc tố tụng trong xét xử, Kiểm sát viên đại diện cho bên buộc tội ngang hàng với bên gỡ tội. Nếu quy định Kiểm sát viên cùng với Thẩm phán đều là người tiến hành tố tụng đã đặt Kiểm sát viên là bên buộc tội ngang hàng với Thẩm phán là bên xét xử, sẽ tạo sự không ngang hàng giữa chủ thể buộc tội và gỡ tội để thực hiện việc tranh tụng công bằng.

Thứ ba, quy định về quyền của Viện kiểm sát trong việc thực hiện tranh tụng. Theo khoản 2 Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa, nhưng thực tiễn xét xử vẫn còn những trường hợp khi đối đáp, đại diện Viện kiểm sát chỉ nêu tranh luận của Luật sư là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận hoặc không đối đáp lại ý kiến của Luật sư mà chỉ nêu “Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm của mình”, mặc dù có quy định nhưng nếu Kiểm sát viên không đáp lại thì cũng không có cơ chế nào buộc họ phải tranh luận đến cùng.

[c] Quy định về bị cáo

Thứ nhất, quy định về sự có mặt của bị cáo. Điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả. Việc bị cáo có mặt tại phiên tòa xét xử đối chứng và tranh luận để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, cũng là để bào chữa cho mình. Việc quy định Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền của bị cáo. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị cáo cùng phạm tội, nếu cho xét xử vắng mặt một vài bị cáo, rất có thể các bị cáo có mặt sẽ đổ hết tội cho bị cáo vắng mặt để làm giảm nhẹ tội mà không có sự đối chất và tranh luận.

Thứ hai, quy định về quyền của bị cáo. Để tạo cơ chế thực sự dân chủ, bình đẳng tại phiên tòa, tạo điều kiện thực hiện một cách có hiệu quả nhất quyền buộc tội và quyền bào chữa trong quá trình xét xử. Tại các Điều 309, 310, 311 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định bị cáo có quyền hỏi bị hại, nguyên đơn dân sự, người làm chứng... nếu được chủ tọa phiên tòa đồng ý. Ở đây, quyền của bị cáo trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa đã được mở rộng so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Đó là bị cáo có quyền đặt câu hỏi trực tiếp với bị cáo khác, bị hại, người tham gia tố tụng về các vấn đề có liên quan mà không phải truyền đạt câu hỏi của mình qua chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, quyền đặt câu hỏi của bị cáo vẫn bị hạn chế là phụ thuộc vào sự đề nghị hỏi của bị cáo có được chủ tọa phiên tòa đồng ý cho phép hỏi hay không.

[d] Quy định về Tòa án

Thứ nhất, quy định về quyền thu thập chứng cứ. Trong khi cơ quan tố tụng chỉ cần gửi công văn yêu cầu là được cá nhân, tổ chức liên quan đáp ứng thì với Luật sư, khi gặp sự bất hợp tác thì họ cũng đành chịu bởi không hề có quy định chế tài trường hợp từ chối cung cấp chứng cứ cho Luật sư. Trong khoản 1 và khoản 2 của Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về việc thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu. Trong khi đó, Luật sư, người bào chữa chỉ có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Chỉ riêng cách dùng từ giữa đề nghị và yêu cầu cũng cho thấy sự khác biệt trong việc thu nhập chứng cứ giữa các bên. Ngoài ra, khoản 6 Điều 252 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định Tòa án có quyền tiến hành thu thập chứng cứ, tài liệu để chứng minh vụ án trong trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung chứng cứ. Quy định này làm cho Tòa án ngoài chức năng xét xử còn có chức năng đi tìm chứng cứ (có thể là chứng cứ buộc tội) thì quá trình xét xử sẽ không bảo đảm công bằng.

Thứ hai, quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án. Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Mà cơ quan tiến hành tố tụng theo Điều 34 của Bộ luật này liệt kê gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án. Vậy có nghĩa là theo quy định, Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng, có nghĩa là Tòa án cũng phải có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Quy định như vậy cực kỳ mâu thuẫn với nguyên lý: Tòa án thực hiện việc xét xử, việc chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.

[e] Quy định về thủ tục tố tụng

Thứ nhất, quy định về vấn đề tranh luận của Luật sư tại phiên tòa. Theo khoản 3 Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chủ tọa phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Khái niệm “không liên quan vụ án” rất chung chung, có nhiều cách hiểu khác nhau, trên thực tế cũng được diễn dịch và áp dụng khác nhau đó là khi chủ tọa phiên tòa dùng quyền của mình để cắt ý kiến của người bào chữa.

Thứ hai, quy định về trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm. Theo Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, khi tiến hành xét hỏi thì chủ tọa phiên tòa hỏi trước, các thành viên còn lại của Hội đồng xét xử hỏi rồi mới đến Kiểm sát viên. Theo tác giả, trình tự thực hiện việc xét hỏi như vậy là chưa hợp lý. Để thực hiện nguyên tắc tranh tụng thì Viện kiểm sát phải thực hiện chức năng buộc tội trước, từ đó người bào chữa mới có căn cứ để thực hiện bào chữa. Còn Tòa án thực hiện chức năng điều khiển phiên tòa, tiến hành xét xử.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết  Tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, Email: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.28770 sec| 1016.57 kb