Quyền và vai trò của Toà án nhân dân đối với xã hội

24/02/2023
Luật sư Nguyễn Thị Yến
Luật sư Nguyễn Thị Yến
Pháp luật mà tòa án có quyền giải thích phải được hiếu theo nghĩa rộng, nghĩa là không chỉ dừng lại ở pháp luật thực định. Tòa án còn có quyền giải thích cả các điều khoản gây tranh cãi trong các cam kết pháp lí mà các chủ thể tư nhân đặt ra để điều chỉnh giao dịch của mình. Bởi vì hợp đồng là “pháp luật” mà các bên đã kí kết với nhau.

I- Quyền giải thích pháp luật của tòa án

Quyền giải thích pháp luật là quyền “tuyên bố” nghĩa của pháp luật áp dụng trong các trường họp cụ thể, nói cách khác thì đó là quyền phát biểu pháp luật là gì trong những trường họp cụ thể. Khi một tranh chấp được đưa lên tòa án, rất có thể pháp luật áp dụng đối với tranh chấp đó không đủ rõ ràng, làm cho các bên trong tranh chấp đưa ra cách hiểu, cách giải thích khác nhau. Cách hiếu nào cũng có lí nhất định. Tòa án trong trường hợp đó sẽ phải đưa ra lời giải thích cuối cùng để chấm dứt sự hanh cãi và đưa ra phán quyết. Giải thích pháp luật của tòa án có giá trị ràng buộc đối với tất cả các bên kể cả nếu một trong hai bên là cơ quan nhà nước.

về mặt lí luận, tòa án đương nhiên có quyền giải thích pháp luật. Bất luận phán quyết của tòa án trong một vụ việc cụ thể là như thế nào thì tòa án chỉ có thể chứng tỏ công lí đã được thực thi bằng việc đưa ra lí lẽ chắc chắn để làm căn cứ. Đối với hoạt động áp dụng pháp luật, lí lẽ của phán quyết chính là các lập luận pháp lí. Trước tiên, tòa án phải chỉ ra QPPL mà tòa án áp dụng. Sau đó, tòa án phải giải thích làm rõ tinh thần và nội dung của QPPL, qua đó lí giải tại sao quy phạm đó lại được áp dụng và kết quả của việc áp dụng là như thế nào. Thiếu phần giải thích pháp luật, phán quyết của tòa án sẽ không có cơ sở chắc chắn. Quyền giải thích pháp luật, như vậy, trở thành một yếu tố không thể thiếu để tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lí.

Pháp luật mà tòa án có quyền giải thích phải được hiếu theo nghĩa rộng, nghĩa là không chỉ dừng lại ở pháp luật thực định. Tòa án còn có quyền giải thích cả các điều khoản gây tranh cãi trong các cam kết pháp lí mà các chủ thể tư nhân đặt ra để điều chỉnh giao dịch của mình. Bởi vì hợp đồng là “pháp luật” mà các bên đã kí kết với nhau. Do đó trong trường hợp các bên có ý kiến khác nhau thì tòa án phải là cơ quan đưa ra lời giải thích cuối cùng.

Nếu tòa án không có quyền giải thích pháp luật hoặc có giải thích pháp luật song không có giá trị bắt buộc thì có thể sẽ có hai trường họp xảy ra. Trường hợp thứ nhất, tòa án chỉ viện dẫn điều khoản của luật để đưa ra kết luận mà không giải thích cụ thể tại sao điều luật lại được áp dụng cho vụ việc đang xét xử. Trường họp thứ hai, tòa án đưa ra nội dung giải thích pháp luật, song giữa những nội dung giải thích khác nhau, trong đó có nội dung giải thích của các bên, không có giải thích nào có giá trị cuối cùng. Trong cả hai trường họp, phán quyết của tòa đều thiếu căn cứ, lập luận chưa chắc chắn, không thuyết phục, do đó khó có thể cho thấy công lí đã được thi hành.

 

Pháp luật thực định của Việt Nam vẫn chưa thực sự phù hợp với lí luận về vấn đề này. Hiện chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể quyền giải thích pháp luật của tòa án. Mặc dù vậy, gần đây đã có một số quy định điều chỉnh việc ban hành án lệ trong đó gián tiếp đề cập tới quyền giải thích pháp luật của tòa án.

Theo quy định tại Điều 22 Luật tổ chức TAND năm 2014, Hội đồng thẩm phán TANDTC, tức là cơ quan xét xử cao nhất của hệ thống TAND, có thẩm quyền ban hành án lệ. Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC, để được chọn làm án lệ, các quyết định giám đốc thẩm hay bản án của các tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải: “chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau.” Quy định này có thể được hiểu là trong các quyết định giám đốc thẩm hoặc bản án, tòa án có quyền phân tích, giải thích pháp luật. Tuy vậy, do quy định chưa thực sự rõ ràng nên thực tiễn giải thích pháp luật của tòa án hiện nay vẫn còn khá nhiều hạn chế.

II- Quyền đình chỉ hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật

Một vấn đề khác cũng thường gây tranh luận là liệu tòa án có quyền định chỉ hiệu lực của một văn bản QPPL có nội dung trái với văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn. Từ trước tới nay, câu hỏi này vẫn thường là một vấn đề tế nhị bởi nó chạm tới ranh giới phạm vi thẩm quyền của tư pháp với hành pháp và lập pháp.

về mặt lí luận, quyền đình chỉ hiệu lực văn bản QPPL có nội dung trái văn bản cấp trên là quyền tất yếu của tòa án. Trong quá trình thực hiện quyền xét xử, tòa án phải thực hiện một công việc không thể thiếu là chọn pháp luật áp dụng. Pháp luật ở đây được hiếu theo nghĩa rộng, tức là các QPPL từ nhiều loại văn bản QPPL khác nhau, thậm chí là án lệ hoặc hợp đồng giữa hai bên. Nếu các QPPL từ các nguồn khác nhau có nội dung mâu thuẫn thì sẽ không thể áp dụng tất cả. Trường hợp này buộc phải chọn QPPL phù hợp thì vụ việc mới có thể được giải quyết. Pháp luật từ các văn bản QPPL có hiệu lực thấp hơn mà mâu thuẫn với văn bản QPPL cao hơn sẽ phải bị tuyên vô hiệu. Không cơ quan nào khác ngoài tòa án có thể làm việc này, bởi lẽ tòa án là cơ quan đang thụ lí vụ việc và việc chọn luật nằm trong quy trình tư duy của tòa án. Bất kì cơ quan nào khác thực hiện việc lựa chọn thay cho tòa án sẽ cản trở quá trình thi hành công lí của tòa án.

Ở góc độ pháp lí, pháp luật thực định của Việt Nam chưa giải quyết triệt để vấn đề trên đây như ở góc độ lí luận. Từ trước tới nay, khi có trường họp mâu thuẫn trong quy định của văn bản như vậy thì tòa án vẫn thường dựa vào giải thích của cơ quan ban hành để tiến hành xét xử chứ không tuyên vô hiệu đối với văn bản QPPL cấp dưới có mâu thuẫn với văn bản QPPL cấp trên. Tuy nhiên, gần đây Luật tổ chức TAND cũng đã có những quy định mang tính gợi mở hơn. Theo quy định tại khoản 7 Điều 2 Luật tố chức TAND năm 2014, nếu trong quá trình xét xử phát hiện văn bản QPPL trái với các văn bản QPPL do Quốc hội và UBTVQH ban hành thì tòa án đang thụ lí vụ việc, cho dù ở cấp nào, cũng có quyền kiến nghị cơ quan ban hành xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản đó. Dựa vào kết quả trả lời của cơ quan ban hành tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ việc. Như vậy, tòa án Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn có quyền bãi bỏ hoặc tuyên vô hiệu đối với văn bản QPPL sai phạm. Song, với quy định trên đây, tòa án đã có quyền không áp dụng văn bản sai phạm cho đến khi cơ quan ban hành có biện pháp xử lí thích đáng. Cũng có thế gọi đây là “quyền đình chỉ tạm thời hiệu lực” của văn bản QPPL sai phạm.

III- Vai trò của Toà án Nhân dân đối với Xã hội

Nói tới vai trò của tòa án tức là nói tới tác động và ý nghĩa của tòa án đối với xã hội, tới “giá trị” mà tòa án đóng góp cho xã hội. Mang trên mình sứ mệnh “bảo vệ công lí”, có thể khẳng định tòa án đóng vai trò cực kì quan trọng trong các mặt của đời sống xã hội. Vai trò của tòa án thể hiện rõ nhất qua ba khía cạnh cơ bản sau.

1- ​​​​​​​Bảo đảm trật tự, ổn định, bình yên

Từ cổ chí kim, trên lãnh thổ của bất kì quốc gia nào, khi con người sống quây tụ với nhau thành cộng đồng thì có thể phát sinh xung đột. Dân số càng tập trung thì sự va chạm lợi ích càng nhiều và do đó xung đột cũng càng nhiều và gay gắt. Nói cách khác, xung đột giữa người với người, giữa người dân với cơ quan nhà nước là hiện tượng khách quan, ở đâu cũng có và bất kì thời kì nào cũng có. Xã hội không có xung đột chỉ là xã hội lí tưởng hóa. Tất nhiên, con người ai cũng có nhu cầu cơ bản nhất là được sinh sống trong một môi trường hòa bình, một xã hội có trật tự và yên bình. Xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được nếu không duy trì được trật tự, ổn định, đặc biệt là sự yên bình trong xã hội. Như vậy, câu hỏi lớn luôn đặt ra đối với bất kì xã hội nào là làm thế nào để duy tri trật tự, ổn định và sự yên bình trong điều kiện sự va chạm, xung đột lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội lúc nào cũng có thể xảy ra?

Câu trả lời nằm ở hai yếu tố: Pháp luật và công lí, trong đó công lí đóng vai trò quan trọng hơn.

Từ thời Cổ đại, Aristotle đã đưa ra nhận định mà cho tới ngày nay vẫn đúng: “Con người, khi hoàn hảo, là loài động vật tuyệt vời nhất, nhưng, khi rời xa pháp luật và công lí, đó lại là loài động vật tồi tệ nhất... Bởi vậy, con người không có phẩm hạnh sẽ là loài động vật báng bổ và tàn bạo nhất, luôn đói khát và thèm thuồng nhất. Nhưng công lí chính là thứ ràng buộc mọi người trong quốc gia, vì sự thi hành công lí, tức là quyết định cái gì là công bằng, chính là nguyên tắc duy trì trật tự trong một xã hội có nhà nước (xã hội chính trị)”.1 Thế kỉ IV sau công nguyên, Augustine, nhà triết học Thiên chúa giáo được phong Thánh, cũng khẳng định: “Nếu công lí bị tước đoạt thì các vương quốc sẽ chỉ còn đầy rẫy cướp bóc khủng khiếp”. Đến cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, Wilhelm Joseph, triết gia nổi tiếng người Đức, tiếp tục khẳng định: “Sự thất bại trong duy trì công lí dân sự sẽ ngay lập tức dẫn tớỉ tình trạng gia tăng tội phạm gây bất ổn xã hội. Càng nhiều người cảm thấy sự bất công thỉ sự bất cồng càng trở thành một phần trong tâm lý hành xử của họ ”.

 

Như vậy, yếu tố mấu chốt để bảo đảm trật tự, ổn định và bình yên trong xã hội chính là bảo vệ và duy trì được công lí. Như Francis Bacon, nhà triết học, luật gia, tác gia lỗi lạc thời kì khai sáng của Anh Quốc đầu thế kỉ XVII viết: “Nếu chúng ta không bảo vệ, duy trì Công lí, thì Công lí không bảo vệ, duy trì chúng ta”. Nếu người dân thấy trong xã hội có công lí thì mọi xung đột, mâu thuẫn hay va chạm đều có thể được hóa giải. Ngược lại, sẽ càng làm tình trạng xung đột ngày càng nhiều và trầm trọng.

 

Nhìn vào hoạt động của tòa án, chúng ta thấy những nhận định trên đây càng được khẳng định.

(i) Thứ nhất, tòa án đại diện cho cơ chế mà nhà nước cung cấp để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội một cách hòa bình và theo cách thức văn minh. Nếu người dân tự xử các tranh chấp của mình thì sẽ gây tình trạng “luật rừng”, kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, kẻ côn đồ làm người hiền lành run sợ. Tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vũ lực, bằng sự hành hung thậm chí giết chóc lẫn nhau. Từ đó dẫn tới tình trạng bất ổn và rối loạn. Trong xã hội “luật rừng” thì thế lực tội phạm sẽ lộng hành và không người dân nào cảm thấy yên ổn. Người dân tự xử tranh chấp của mình thì không bao giờ bảo đảm được công lí vì không bên nào chịu bên nào. Chính vì vậy mà nhà nước hình thành cơ chế tòa án để giải quyết mọi tranh chấp trong xã hội. Bằng cơ chế tòa án, nhà nước buộc mọi tranh chấp, cho dù trong đó các bên có bức xúc tới đâu, uất ức tới đâu, cũng phải được giải quyết một cách hòa bình chứ không được dẫn tới xung đột, không dẫn tới tình trạng người chịu thua phải “ngậm đắng, nuốt cay” trước kẻ mạnh để rồi lại tìm cơ hội trả thù. Người dân không bao giờ khuất phục trước cưỡng lực cho dù cưỡng lực đó có lớn như thế nào, người dân chỉ bị thuyết phục trước công lí. Tòa án xét xử các tranh chấp trên cơ sở lẽ phải, lẽ công bằng chứ không căn cứ sức mạnh các bên. Trước tòa án, các bên bình đẳng và có quyền đưa ra lí lẽ của mình để bảo vệ quyền lợi của mình. Như vậy, cách bảo vệ quyền lợi bằng lí lẽ chứ không phải bằng vũ lực. Bên cạnh đó, tòa án có quyền triệu tập bất kì ai về vấn đề của vụ án. Người được triệu tập phải trình diện và trả lời trước tòa án, cho dù đó là cơ quan nhà nước. Với cơ chế này, công lí, lẽ phải, lẽ công bằng được làm rõ và tranh chấp được giải quyết. Cơ chế giải quyết tranh chấp tại tòa án như vậy là cơ chế giải quyết văn minh mà qua đó tòa án đem lại công lí cho từng tranh chấp cụ thể. Người dân cảm thấy thuyết phục vì tranh chấp được giải quyết dựa trên lẽ công bằng, lẽ phải, pháp luật chứ không dựa trên quy luật “cá lớn nuốt cá bé” hay “người có tài sản giá trị cao luôn phải bồi thường cho người có tài sản giá trị thấp”. Cách thức tìm ra lẽ phải, lẽ công bằng là sử dụng lí lẽ chứ không phải là vũ lực. Người chủ trì quá trình tìm ra lẽ phải, lẽ công bằng là công chức nhà nước chuyên nghiệp, là chuyên gia pháp luật và không thiên vị bên nào. Ket quả xét xử như vậy hoàn toàn thể hiện công lí và các bên sẽ cảm thấy vụ việc được giải quyết thỏa đáng mà không có xung đột hay trả thù. Từ đó dù có tranh chấp, bức xúc, thậm chí uất ức thì vụ tranh chấp cũng được giải quyết ổn thỏa và trong hòa bình.

(ii) Thứ hai, không những giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong hòa bình, đem lại công lí cho từng vụ việc cụ thể, Tòa án còn đem lại công lí chung cho xã hội. Từ mỗi vụ việc được giải quyết một cách hòa bình, tòa án cho người dân nói chung thấy trong xã hội có công lí và mỗi khi họ có tranh chấp hay bị bất công, bắt nạt thì nhà nước có một cơ chế mạnh mẽ đe bảo vệ họ. Những kẻ xâm hại thân thể, lợi ích của người khác bị trừng trị thích đáng. Người yếu thế không phải sợ kẻ mạnh hơn vì đã có công lí bảo vệ họ. Kẻ mạnh hơn cũng không dám bắt nạt người yếu thế hơn bởi công lí sẵn sàng trừng trị họ. Từ đó công lí được duy trì trong xã hội và công lí bảo vệ mọi người trong xã hội. Qua hoạt động xét xử của tòa án, người dân cũng thấy được pháp luật gần gũi với cuộc sống, có hiệu lực trong đời sống, từ đó ý thức tuân thủ pháp luật được nâng cao. Ổn định, trật tự và bình yên nhờ đó được duy trì trong xã hội.

Như vậy, Tòa án chứ không phải bất kì cơ quan nhà nước nào khác đóng vai trò chủ chốt trong việc bảo đảm ổn định, trật tự và bình yên trong xã hội, bởi vì khi tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lí của mình thì công lí sẽ ngự trị và người dân được bảo vệ trong một xã hội ổn định, trật tự và yên bình. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, vai trò này là một trách nhiệm chứ không phải là đặc ân dành cho tòa án. 

Như trên đã đề cập, chỉ có tòa án mới là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ công lí. Nếu tòa án không hoàn thành được nhiệm vụ này, tức là không cho thấy công lí hiện diện qua từng phán quyết của mình, công lí sẽ không hiện diện trong xã hội. Hậu quả là người dân không tin vào công lí. Họ sẽ tự giải quyết các tranh chấp của mình và xã hội sẽ đầy rẫy bạo lực, đúng như hình ảnh mà Augustine đã mô tả.

2- ​​​​​​​Bảo đảm kiểm soát quyền lực, xây dựng nhà nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật

Như trình bày tại Chương X, triết lí cốt lõi của nhà nước pháp quyền là mọi chủ thể trên lãnh thổ quốc gia, từ người dân tới tổ chức và cơ quan nhà nước, đều phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Điều này có nghĩa là mọi vi phạm pháp luật, vi phạm các quyền và lợi ích họp pháp đều phải bị chế tài. Hoạt động của tòa án trực tiếp hiện thực hóa triết lí đó. Khi thực hiện các nhiệm vụ như phân tích trên đây, tòa án đồng thời cũng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật. Hơn thế, tòa án bảo vệ pháp luật nhân danh công lí, tức là nhân danh giá trị thuyết phục nhất trong xã hội. Như vậy, tòa án có vai trò trực tiếp bảo đảm xây dựng nhà nước pháp quyền.

Các hoạt động của tòa án cũng góp phần quan trọng kiểm soát quyền lực nhà nước. Vai trò của tòa án trong vấn đề này thể hiện rõ nét nhất ở hai phương diện:

(i) Thứ nhất, khi xét xử các vụ án hành chính, tòa án thể hiện vai trò giám sát quyền lực của cơ quan hành chính nhà nước. Điều này có ý nghĩa vô cùng lớn. Các cơ quan hành chính nhà nước tạo thành hệ thống cơ quan lớn nhất trong bộ máy nhà nước với nhiều công chức và đầu mối cơ quan từ trung ương tới địa phương. Hoạt động của hệ thống này tác động trực tiếp, hàng ngày và mọi mặt tới đời sống người dân. Với tính chất như vậy, cơ quan hành chính thường gây nhiều khúc mắc, khiếu kiện nhất với người dân. Khi vụ kiện hành chính xảy ra, tức là đã có người dân cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm bởi hoạt động của một cơ quan hành chính nhà nước nào đó và muốn tòa án bảo vệ. Tòa án, trong trường hợp này sẽ không thể làm thay cơ quan hành chính mà chỉ phân xử liệu hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước có trong khuôn khổ pháp luật cho phép hay không, tức là có hợp pháp hay không. Như vậy, cho dù phán quyết của tòa án như thể nào thì cơ quan này cũng đã thực hiện công việc kiểm soát hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước không được vượt ra ngoài khôn khổ pháp luật. Người dân, nhờ thế, cũng được bảo vệ trước sự lạm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước.

(ii) Thứ hai, khi tòa án thực hiện quyền “đình chỉ hiệu lực” của văn bản QPPL như đề cập trên đây. Văn bản QPPL trái với văn bản của cấp trên là những văn bản không có hiệu lực áp dụng. Khi tòa án phát hiện và đề nghị cơ quan ban hành sửa đổi, bổ sung tức là đã nêu vấn đề trong văn bản có mâu thuẫn để cơ quan ban hành xem xét. Trong quá trình đó, văn bản QPPL có vấn đề sẽ chưa được áp dụng. Qua hoạt động này, về thực chất tòa án góp phần kiểm soát hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cơ quan lập quy. Tuy nhiên, hiện nay vai trò kiểm soát của tòa án trong lĩnh vực này mới đang giới hạn trong phạm vi bảo đảm sự tuân thủ các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và UBTVQH.

Điều cần lưu ý là vai trò trên đây của tòa án hiện nay đang gặp những rào cản tương đối lớn. Tòa án hiện nay chưa được quy định quyền hủy bỏ hiệu lực của các văn bản QPPL trái với các văn bản cấp trên. Cũng chưa văn bản pháp luật nào quy định chính thức rằng tòa án có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Do vậy, những vấn đề quan trọng nhất trong lĩnh vực kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm pháp quyền vẫn chưa thực sự phát huy được vai trò của tòa án.

3- Bảo đảm an toàn pháp lí cho môi trường kinh doanh

 

An toàn pháp lí là khái niệm rất quan trọng đối với môi trường kinh doanh. Khái niệm này được hiểu là điều kiện có được trong môi trường kinh doanh ở mỗi quốc gia khi thương nhân kinh doanh ở quốc gia đó tin tưởng rằng quyền lợi của mình được pháp luật bảo vệ và khi quyền lợi của mình bị xâm phạm thì sẽ có cơ chế hữu hiệu và kịp thời ở quốc gia đó bảo vệ quyền lợi cho mình và bảo đảm những thiệt hại được bồi thường thỏa đáng.

An toàn pháp lí là yếu tố cực kì quan trọng cho sự ổn định, tính lành mạnh của môi trường kinh doanh. An toàn pháp lí cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong thu hút đầu tư và phát trien kinh tế. Có an toàn pháp lí thì các doanh nghiệp không lo bị chèn ép, không mất thời gian và chi phí cho các công việc phi kinh doanh, không sợ tiêu cực, từ đó tập trung phát triển hoạt động kinh doanh. Có an toàn pháp lí, nhà đầu tư nước ngoài và trong nước mới yên tâm đầu tư. Thực tế cho thấy an toàn pháp lí, cùng với on định chính trị là những yếu tố vô cùng quan trọng tạo ra tính cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia trong thu hút nguồn vốn, thúc đấy sự phát triển kinh tế. Đó là chưa kể một số quốc gia có độ an toàn pháp lí cao còn có thể phát triển, cung cấp dịch vụ tư pháp cho cả khu vực, ví dụ như: Singapore.

Có thể thấy, an toàn pháp lí có phạm trù tương tự như bảo vệ công lí trong kinh doanh. Và như vậy, tòa án đóng vai trò quan trọng nhất, với tư cách là cơ quan phân xử tranh chấp giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tòa án cũng phân xử các tranh chấp hành chính khi doanh nghiệp kiện cơ quan hành chính nhà nước. Thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ công lí trong lĩnh vực này, tòa án sẽ tỏ cho các doanh nghiệp thấy rằng hoạt động kinh doanh của họ được pháp luật bảo vệ, quyền và lợi ích họp pháp của họ được công lí bảo vệ. Tòa án, như vậy, trực tiếp bảo đảm an toàn pháp lí cho môi trường kinh doanh.

Cũng cần lưu ý rằng, không chỉ có tòa án là cơ quan phân xử các tranh chấp thương mại mà còn có sự tham gia của các thiết chế tài phán phi nhà nước như Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), các trung tâm trọng tài thương mại, thậm chí trọng tài nước ngoài. Các thiết chế này đóng vai trò thường xuyên và khá hiệu quả trong giải quyết tranh chấp thương mại bởi tính chất của chúng phù hợp với tính chất của các tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, tòa án vẫn đóng vai trò quan trọng hơn trong bảo đảm an toàn pháp lí cho môi trường kinh doanh. Nếu tòa án thực sự khách quan và bảo vệ công lí thì thiết chế đó hiệu quả và đỡ tốn kém hơn nhiều so với các thiết chế tài phán phi nhà nước. Mặt khác, phán quyết của các thiết chế giải quyết tranh chấp thương mại phi nhà nước phải được tòa án công nhận và cho thi hành thì mới có hiệu lực thi hành ở Việt Nam. Bên cạnh đó, tranh chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan hành chính nhà nước vẫn chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án.

Luật sư Nguyễn Thị Yến - Phó Giam Đốc của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (từ Giao trình Luật Hiến pháp Việt Nam - Đại Học Luật Hà Nội (2021) và một số nguồn khác) 

 

0 bình luận, đánh giá về Quyền và vai trò của Toà án nhân dân đối với xã hội

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.18914 sec| 1033.859 kb