Vấn đề chung về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

"Luật lệ không công bằng tự nó đã là một dạng bạo lực".

Mahatma Gandhi, 1869 - 1948, anh hùng Ấn Độ

Vấn đề chung về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Khi thụ lý hồ sơ vụ tranh chấp từ khách hàng, công việc đầu tiên của luật sư tranh tụng cần thực hiện là kểm tra sơ bộ xem có một thỏa thuận trọng tài hay không và giá trị pháp lý cũng như hiệu lực thực tế của thỏa thuận đó.

Lưu ý rằng, “sự tồn tại của một thỏa thuận trọng tài”“giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài” cũng như "hiệu lực thực tế của thỏa thuận trọng tài" đều là những khái niệm pháp lý phức tạp đòi hỏi luật sư tranh tụng cần có kiến thức tương đối chuyên sâu về luật trọng tài quốc tế và là những vấn đề pháp lý cần phải lập luận trước Hội đồng trọng tài ở ngay giai đoạn tố tụng ban đầu, đặc biệt trong trường hợp một bên phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.

Liên hệ

I- KHÁI LƯỢC VỀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

1- Khái niệm phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 (Luật trọng tài thương mại): “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Tuy nhiên, quy định trên chỉ để giải thích từ ngữ trong việc áp dụng và không nhằm mục đích bao quát hết bản chất của trọng tài. Nhìn chung, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện (là hình thức kết hợp giữa yếu tố thỏa thuận và tài phán).

2- Đặc điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Tính chung thấm của phán quyết (finality): Phán quyết trọng tài là chung thẩm và luật sư tranh tụng cần lưu ý không thể yêu cầu tòa án xem xét lại nội dung phán quyết. Luật sư chỉ có thể tư vấn cho khách hàng yêu cầu hủy phán quyết dựa trên các căn cứ bị giới hạn như quy đinh tại Điều 68 Luật trọng tài thương mại hoặc yêu cầu từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài theo Điều V Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài (gọi tắt là Công ước New York 1958).

Trong cả hai trường hợp, nghĩa vụ chứng minh đều thuộc về bên phản đối và luật sư tranh tụng cần lưu ý để chuẩn bị tài liệu, luận cứ phù hợp. Đây là điểm khác biệt cơ bản với việc xét xử của tòa án vốn có nhiều cấp xét xử khác nhau tùy thuộc vào từng thẩm quyền tài phán: cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm, xem xét lại ở cấp giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc theo thủ tục đặc biệt như quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tính chung thẩm của phán quyết trọng tài nhìn chung được coi là thuận lợi cho doanh nghiệp vì không kéo dài thời gian tiến hành tố tụng ở các cấp xét xử khác nhau, giúp giải quyết một lần dứt điểm vụ tranh chấp. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp khách hàng lại muốn có cơ hội để xem xét lại nội dung của vụ kiện ở cấp xét xử cao hơn thì trọng tài lại không phải là phương thức phù hợp.

Sự công nhận quốc tế (international enforceability): Ở đây muốn nói đến khả năng thi hành phán quyết trọng tài trên phạm vi toàn cầu theo Công ước New York 1958 (được coi là một trong số các điều ước quốc tế thành công nhất cho đến nay khi có đến 159 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia công ước) nên xét về mặt lý thuyết thì phán quyết trọng tài ban hành ở một quốc gia thành viên sẽ có thể được công nhận và cho thi hành bởi 158 quốc gia thành viên còn lại. Đây là một ưu thế hơn hẳn so vói bản án của tòa án quốc gia trong khi chưa có một điều ước quốc tế với mô hình tương tự bảo đảm cho việc thi hành án trên phạm vi toàn cầu mà thường phụ thuộc vào việc ký kết các điều ước quốc tế song phương như 18 hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký.

Tuy nhiên, ưu thế này chủ yếu chỉ phát huy tác dụng khi tranh chấp có yếu tố nước ngoài mà việc thi hành phán quyết trọng tài có thể được thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đối với các tranh chấp nội địa mà tài sản để thi hành án hoàn toàn nằm trên lành thổ Việt Nam thì lợi thế này không có ý nghĩa thực tiễn. Cũng nên lưu ý trong tình hình toàn cầu hóa hiện nay khi đa số các doanh nghiệp đã hoặc có thể sẽ có hoạt động, mở tài khoản hay có các tài sản, hiện diện khác ở nước ngoài, thì Công ước New York 1958 cũng sẽ phát huy tác dụng mạnh mẽ.

Năng lực chuyên môn (professional expertise): Một trong những điểm khác biệt quan trọng giữa trọng tài và tòa án là ở năng lực chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên vốn không chỉ bao gồm những người hành nghề luật như luật sư, mà còn có thể có cả doanh nhân, chuyên gia kỹ thuật, học giả và nhiều đối tượng khác thích hợp để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại và đầu tư quốc tế. Điều quan trọng là các bên tranh chấp có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên phù hợp cho vụ tranh chấp cụ thể của mình.

Luật trọng tài thương mại của Việt Nam cũng có quy định những tiêu chuẩn bắt buộc của trọng tài viên, những trường hợp không được làm trọng tài viên và quyền của tổ chức trọng tài được đưa ra những tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn luật định, nhưng về cơ bản, quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên vẫn được tôn trọng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với một số loại hình tranh chấp đòi hỏi chuyên môn chuyên sâu như trong các lĩnh vực: hàng hải, sở hữu trí tuệ, xây dựng, thương mại và đầu tư quốc tế, ...

Tính linh hoạt trong thủ tục (flexibility): Khác với quy trình tố tụng tại tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục tố tụng quy định tại luật tố tụng tòa án của từng quốc gia như Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 của Việt Nam, trình tự, thủ tục tố tụng trọng tài rất linh hoạt và có thể thay đổi tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên tranh chấp hoặc từng quy tắc tố tụng của các tổ chức trọng tài khác nhau, hoặc theo sự quyết định của từng Hội đồng trọng tài miễn là không vi phạm luật pháp hoặc quy tắc của tổ chức trọng tài hoặc thỏa thuận của các bên.

Tiếp thu tinh thần của Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế cùa ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc ban hành năm 1985, sửa đổi, bổ sung năm 2006 (gọi tắt là Luật mẫu cùa UNCITRAL) thì Luật trọng tài thương mại đã tối đa hóa tính linh hoạt về thủ tục tố tụng khi thường xuyên sử dụng cụm từ “nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của tố chửc trọng tài không quy định khác, thì...” trong rất nhiều điều luật liên quan đến thủ tục tố tụng trọng tài. Các bên tranh chấp có toàn quyền lựa chọn ngôn ngữ trọng tài, thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng trọng tài, v.v…

Thuận lợi trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Đối với các vụ kiện xét xử tại tòa án quốc gia thì thẩm quyền xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoàn toàn thuộc về tòa án. Tuy nhiên, đối với những vụ tranh chấp giải quyết bằng trọng tài thì ngoài tòa án quốc gia có thể xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để hỗ trợ tố tụng trọng tài, bản thân Hội đồng trọng tài hoặc ở một số tổ chức trọng tài có chế định trọng tài viên khẩn cấp (Emergency Arbitrator - EA) cũng có quyền xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Như vậy, một khi các bên tranh chấp đã lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp của mình thì kể cả trong trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng không nhất thiết phải đề nghị tòa án can thiệp.

Chứng cứ (Evidential issue): Chứng cứ trong tố tụng trọng tài không nhất thiết phải đáp ứng những yêu cầu chặt chẽ về hình thức và thủ tục như trong tố tụng dân sự tại tòa án. Tùy thuộc vào từng quy tắc tố tụng trọng tài và từng Hội đồng trọng tài mà vấn đề chứng cứ được xem xét một cách khác nhau. Quy tắc về thu thập chứng cứ trong trọng tài quốc tế do ủy ban trọng tài thuộc Hiệp hội luật sư quốc tế (IBA) thông qua ngày 29/5/2010 được coi là nguồn tài liệu tham khảo rộng rãi trong vấn đề này.

Thời gian (Time): Do chỉ có một cấp xét xử nên giải quyết tranh chấp tại trọng tài thông thường được hiểu là nhanh chóng hơn so với đưa ra xét xử tại tòa án quốc gia. Điều này hoàn toàn đúng trong ngữ cảnh của Việt Nam khi theo thống kê năm 2017 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam thì thời gian trung bình để giải quyết một vụ tranh chấp là 158,93 ngày, tức là chưa đến 06 tháng. Tuy nhiên, đối với trọng tài quốc tế thì thời gian giải quyết tranh chấp có thể kéo dài hơn rất nhiều, có trường hợp lên tới vài năm, đặc biệt là những tranh chấp có giá trị lớn, phức tạp trong các lĩnh vực xây dựng, dự án cơ sở hạ tầng, năng lượng hoặc trong trọng tài đầu tư, v.v..

Tinh bảo mật (confidentiality): Luật sư cần lưu ý rằng mọi thông tin về tranh chấp tại trọng tài không được công khai, vì riêng thông tin tranh chấp có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Điều này được quy định rõ như là một trong những nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam.

Chi phí (Cost): Trái với quan niệm thông thường, chi phí giải quyết tranh chấp tại trọng tài trên thực tế có thể cao hơn tại tòa án vì các bên tranh chấp phải trả phí trọng tài cho tổ chức trọng tài, thù lao cho trọng tài viên và các chi phí có liên quan khác như thuê phòng họp xét xử, phiên dịch, chuyên gia làm chứng, v.v. so với án phí nộp cho tòa án. Tuy nhiên, vì thời gian giải quyết tranh chấp thông thường sẽ ngắn hơn do chỉ có một cấp xét xử nên chi phí thực tế có thể được giảm thiểu so với việc mất mát chi phí cơ hội của doanh nghiệp khi vụ kiện ở tòa án quốc gia bị kéo dài qua nhiều cấp xét xử khác nhau. Đối với Việt Nam điều này rất quan trọng khi các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến việc tốn kém những chi phí không chính thức trong quá trình kiện tụng và khả năng thu hồi phí trọng tài và chi phí pháp lý cho luật sư tranh tụng khi thắng kiện tại trọng tài cũng là một ưu thế quan trọng.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về hợp đồng hôn nhân của Công ty Luật TNHH Everest

II- NGUYÊN TẮC VÀ ĐIỀU KIỆN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI

1- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Luật sư tranh tụng cần biết và hiểu rõ những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài này khi tư vấn cho khách hàng hoặc tham gia quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:

Tôn trọng thỏa thuận của các bên (Party Autonomy): Thỏa thuận của các bên được ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) coi là nguyên tắc cơ bản nhất (magna cata) trong thủ tục tố tụng trọng tài. Mặc dù vẫn chịu một số hạn chế và vẫn phải tuân thủ pháp luật, trong tố tụng trọng tài, các bên có quyền thỏa thuận về cách thức tiến hành tố tụng, phạm vi thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, lựa chọn trung tâm và địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài v.v..

Độc lập, vô tư, khách quan của trọng tài viên (Independence and Impartiality): Một nguyên tắc cơ bản khác của trọng tài đó là trọng tài viên thì “không thể vừa đá bóng, vừa thổi còi”, tức là trọng tài viên không được thiên vị. Do đó, bên cạnh chuyên môn của trọng tài viên, luật sư tranh tụng cần nắm vững những tiêu chuẩn quốc tế về nghĩa vụ tiết lộ (disclosure duty) và tính vô tư, khách quan của trọng tài viên để lựa chọn một trọng tài viên phù hợp và kịp thời phản đối những trọng tài viên mà luật sư tranh tụng nghi ngờ thiếu vô tư, khách quan cũng như bảo vệ trọng tài viên mà mình cho là đủ tiêu chuẩn trước phản đối của bên còn lại.

Các bên đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, các bên phải được tạo điều kiện để thực hiện quyền và nghĩa vụ cùa mình (Due process and equal treatment): Nguyên tắc này của pháp luật Việt Nam thống nhất với thông lệ trọng tài quốc tế, đó là các bên phải được bảo đảm đối xử bình đẳng và tạo điều kiện thuận lợi như nhau để trình bày quan điểm của mình. Đây là nguyên tắc phổ biến để dựa vào đó các bên đưa ra những yêu cầu về mặt tố tụng (ví dụ như: gia hạn thời gian chuẩn bị bàn luận cứ, đề nghị triệu tập nhân chứng v.v.) hay bác bỏ những yêu cầu tố tụng vô lý của bên kia để bảo đảm bình đẳng, công bằng trong tố tụng. Cần lưu ý rằng, đối xử bình đẳng không có nghĩa là đối xử các bên theo một trình tự tương đương giống hệt nhau - nhất là trong những vụ kiện bị đơn từ chối tham dự và Hội đồng trọng tài phải mở phiên xử vắng mặt (Ex-parte Proceedings). Khi đó, luật sư tranh tụng cần bảo đảm rằng bên vắng mặt đã được tạo điều kiện để thực hiện quyền của mình nhưng họ tự từ bỏ, không thực thi quyền tố tụng đó.

Ngoài ra, luật sư tranh tụng cũng cần phải lưu ý những nguyên tắc cơ bản khác trong trọng tài quốc tế như:

Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài (separability): Nguyên tắc này được quy định thành một điều luật riêng biệt - Điều 19 Luật trọng tài thương mại , trong đó giải thích rõ: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Do đó, kể cả trong trường hợp hợp đồng phát sinh tranh chấp bị vô hiệu cũng không ảnh hưởng đến thẩm quyền của một Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng đó theo quy định của một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực trong hợp đồng.

Quyền của Hội đồng trọng tài tự xem xét thẩm quyền của mình (competenz-competenz): Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản cùa trọng tài quốc tế được thể hiện tại Điều 16 Luật mẫu của UNCITRAL và được kế thừa tại Điều 43 Luật trọng tài thương mại. Theo quy định này thì Hội đồng trọng tài có thẩm quyền xem xét về sự tồn tại và hiệu lực pháp lý cũng như thực tế của thỏa thuận trọng tài và có quyền quyết định về thẩm quyền của chính mình. Trong trường hợp Hội đồng trọng tài tự xét thấy vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật trọng tài thương mại. Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo cho các bên biết.                        

Tòa án phải từ chối thụ lý khi có thỏa thuận trọng tài: Đây là một nghĩa vụ pháp lý của quốc gia thành viên Công ước New York 1958. Nguyên tắc này được quy định rõ tại Điều 6 Luật trọng tài thương mại và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thầm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 20/3/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật trọng tài thương mại thể hiện một cách rõ ràng và nhất quán quan điểm chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao tôn trọng và hỗ trợ trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest

2- Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Khác với phương thức tranh tụng khi tòa án quốc gia có thẩm quyền đương nhiên đối với một vụ kiện nếu các bên tranh chấp không cỏ thỏa thuận nào khác. Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài thương mại đòi hỏi phải có (i) sự tồn tại của một thỏa thuận trọng tài mà thỏa thuận đó (ii) phải có giá trị pháp lý và (iii) có hiệu lực trên thực tế, tức là có thể thực hiện được.

Nguyên tắc này được phản ánh tại Điều 5 và Điều 6. Như vậy, khi thụ lý hồ sơ vụ tranh chấp từ khách hàng thì một trong những công việc đầu tiên của luật sư tranh tụng cần thực hiện là kiểm tra sơ bộ xem có một thỏa thuận trọng tài hay không và giá trị pháp lý cũng như hiệu lực thực tế của thỏa thuận đó. Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng, “sự tồn tại của một thỏa thuận trọng tài” và “giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài” cũng như "hiệu lực thực tế của thỏa thuận trọng tài" đều là những khái niệm pháp lý phức tạp đòi hỏi luật sư tranh tụng cần có kiến thức tương đối chuyên sâu về luật trọng tài quốc tế và là những vấn đề pháp lý cần phải lập luận trước Hội đồng trọng tài ở ngay giai đoạn tố tụng ban đầu, đặc biệt trong trường hợp một bên phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.

Điều kiện tiên quyết (Pre-condition): Điều kiện tiên quyết để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông thường được hiểu là những bước pháp lý tiền tố tụng cần phải thực hiện trước khi đưa vụ kiện ra trọng tài. Vấn đề này tương đối phổ biến đối với các họp đồng có điều khoản giải quyết tranh chấp hỗn hợp, nhiều tầng thường được gọi là multi-tier clause, trong đó các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng nhiều phương thức khác nhau như thương lượng (negotiation), hòa giải (mediation), trọng tài (arbitration), v.v. theo một trật tự nhất định mà việc thực hiện phương thức giải quyết tranh chấp trước có thể là tiền đề hoặc điều kiện tiên quyết cho việc tiến hành phương thức giải quyết tranh chấp tiếp theo. Trường hợp phổ biến thường gặp là điều khoản giải quyết tranh chấp theo hợp đồng mẫu của các nhà thầu xây dựng quốc tế FIDIC.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest 

III- CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ, LUẬT MẪU CỦA UNCITRAL VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI

1- Điều ước quốc tế và Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài

- Công ước về việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài (thường được gọi là Công ước New York 1958) do Ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) soạn thảo và thông qua tại kỳ họp ở New York (Mỹ) từ ngày 20/5 đến ngày 10/06/1958 và có hiệu lực kể từ ngày 07/6/1959. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước New York 1958 ngày 12/9/1995 và Công ước này có hiệu lực tại Việt Nam kể tử ngày 11/12/1995. Công ước New York 1958 không chỉ quy định về việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài như tên gọi của công ước mà nội dung có tầm quan trọng không kém chính là những quy định về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, vốn là nền tảng của trọng tài thương mại quốc tế. Do đó, muốn tìm hiểu sâu về trọng tài thương mại quốc tế thì văn bản pháp lý đầu tiên cần nghiên cứu chính là Công ước New York 1958.

- Công ước về việc giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các nhà nước và kiêu dân của các nước khác được ký kết tại Washington (Mỹ) năm 1965 để thành lập nên Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID) thuộc sự bảo trợ của Ngân hàng Thế giới (World Bank) nên thường được gọi là Công ước Washington 1965 hay Công ước ICSID. Công ước ICSID có hiệu lực từ ngày 14/10/1966 và cho đến nay đã có tới 153 quốc gia phê chuẩn công ước này. Việt Nam chưa phải là thành viên của Công ước ICSID nhưng công ước này vẫn có tầm quan trọng nhất định vì nó là nền tảng cho trọng tài đầu tư, được coi là một phân ngành chuyên sâu của trọng tài quốc tế, tạo lập nên những nguyên tắc pháp lý quốc tế quan trọng để giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (hay thường gọi là ISDS: Investor - State Dispute Settlement) mà Việt Nam đã thỏa thuận trong rất nhiều hiệp định bảo hộ đầu tư (BIT) và các hiệp định thương mại tự do (FTA). Chính phủ Việt Nam cũng trở thành bị đơn trong vụ kiện đầu tiên của nhà đầu tư nước ngoài kiện theo cơ chế phụ trợ (Additional Facility) của ICSID ngày 19/3/2018.

- Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (thường được gọi là Luật mẫu của UNCITRAL) được ban hành năm 1985 và sửa đổi, bổ sung năm 2006. Luật mẫu này được soạn thảo để các quốc gia nội luật hóa vào trong hệ thống pháp luật của quốc gia mình và cho đến nay đã được 80 quốc gia, vùng lãnh thổ thông qua ở hơn 111 thẩm quyền tài phán khác nhau. Mặc dù Việt Nam chưa được UNCITRAL công nhận là một quốc gia theo Luật mẫu của UNCITRAL nhưng trên thực tế hầu hết các nguyên tắc cơ bản của trọng tài thương mại quốc tế có trong Luật mẫu của UNCITRAL đều được ghi nhận trong Luật trọng tài thương mại của Việt Nam. Trong quá trình soạn thảo có nhiều nội dung trong một số điều khoản của Luật trọng tài thương mại được kế thừa từ các điều khoản của Luật mẫu của UNCITRAL, do đó muốn tìm hiểu tinh thần của các điều luật trong Luật trọng tài thương mại thì việc nghiên cứu các tài liệu của UNCITRAL về luật trọng tài mẫu là điều rất cần thiết đối với các luật sư tranh tụng.

- Quy định về giải quyết tranh chấp tại các hiệp định, điều ước quốc tế song phương và đa phương khác có liên quan như các hiệp định bảo hộ đầu tư (BIT) và hiệp định thương mại tự do (FTA).

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực đầu tư của Công ty Luật TNHH Everest

2- Các văn bản pháp luật của Việt Nam

- Luật trọng tài thương mại được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011. Luật này điều chỉnh tất cả các vấn đề pháp lý, bao gồm cả các vấn đề về nội dung như thỏa thuận trọng tài và các vấn đề có tính hình thức về thủ tục tố tụng trọng tài của Việt Nam và trọng tài quốc tế có địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.

- Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIll, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016. Bộ luật này điều chỉnh việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam tại Phần thử bảy cũng như thủ tục tố tụng chung khi xem xét hủy phán quyết trọng tài trong nước theo quy định tại Chương XI của Luật trọng tài thương mại và các vấn đề pháp lý khác có liên quan đến vai trò giám sát và hỗ trợ tố tụng trọng tài của tòa án.

- Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 20/3/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định Luật trọng tài thương mại và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02/7/2014.

Ngoài những văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì còn có nhiều văn bản luật và văn bản hướng dẫn thi hành luật khác có liên quan, trong đó đáng lưu ý nhất là BLDS 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 và Công văn số 246/TANDTC-KT ban hành ngày 25/7/2014 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài (Công văn số 246/TANDTC-KT). BLDS năm 2015 có thể được áp dụng để xác định năng lực chủ thể Việt Nam tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài, giải thích thỏa thuận trọng tài hoặc áp dụng các quy tắc xung đột luật để xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài quốc tế nếu các bên không có thỏa thuận chọn luật áp dụng...

Công văn số 246/TANDTC-KT tuy không có hiệu lực như là văn bản luật nhưng có ý nghĩa thực tế rất quan trọng vì nó hướng dẫn tòa án các cấp trong việc giải quyết những vấn đề pháp lý cụ thể khi xét đơn công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, dẫn đến những thay đối hết sức cơ bản về vấn đề này trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest

3- Luật mềm (Soft law)

Ngoài những vàn bản luật nêu trên thì trong lĩnh vực trọng tài, đặc biệt là trọng tài quốc tế còn có những văn bản khác thường được gọi là “luật mềm'' có tầm quan trọng không kém các văn bản luật có liên quan trực tiếp đến những kỹ năng hành nghề của luật sư tranh tụng trong lĩnh vực trọng tài quốc tế, cụ thể:

Các hướng dần của IBA: Có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến trọng tài quốc tế và thường được tham khảo rộng rãi bởi các Hội đồng trọng tài chính là các hướng dẫn của ủy ban trọng tài thuộc Hiệp hội luật sư quốc tế (IBA), trong đó quan trọng nhất là Hướng dẫn về việc soạn thảo điều khoản trọng tài quốc tế (ban hành năm 2010), Quy tắc của IBA về thu thập chứng cứ trong trọng tài quốc tế (ban hành ngày 29/5/2010), Hướng dẫn về đại diện của các bên trong trọng tài quốc tế (ban hành năm 2013) và Hướng dẫn về xung đột lợi ích trong trọng tài quốc tế (ban hành ngày 23/10/2014).

Các lưu ý của UNCITRAL: Ngoài Công ước New York 1958 và việc ban hành Luật mẫu của UNCITRAL, để hài hòa pháp luật trọng tài quốc tế, UNCITRAL còn ban hành Quy tắc trọng tài năm 1976 và được sửa đổi, bổ sung lần lượt vào các năm 2010 và 2013.

Quy tắc trọng tài của UNCITRAL được áp dụng rộng rãi đối với trọng tài vụ việc, tức là trọng tài được tiến hành trực tiếp bởi các bên tranh chấp, không nằm trong khuôn khổ của một tổ chức trọng tài nào cụ thể. Hầu hết các vụ kiện của nhà đầu tư nước ngoài đối với Chính phủ Việt Nam theo các hiệp định bảo hộ đầu tư song phương cho đến nay đều được tiến hành theo Quy tắc trọng tài UNCITRAL này do Việt Nam chưa phải là thành viên của Công ước ICSID. Để hỗ trợ việc áp dụng Công ước New York 1958, Luật mẫu của UNCITRAL và Quy tắc trọng tài, UNCITRAL đã ban hành nhiều văn bản giải thích chính thức, khuyến nghị và lưu ý, trong đó đáng lưu ý nhất liên quan đến kỹ năng hành nghề của luật sư trong trọng tài vụ việc là “Những lưu ý của UNCITRAL về việc tổ chức các vụ kiện trọng tài năm 2016”

Những ấn phẩm của Hội đồng trọng tài thương mại quốc tế ICCA: Ngoài Hiệp hội luật sư quốc tế IBA thì Hội đồng trọng tài thương mại quốc tế ICCA (International Council of International Arbitration) cũng có ảnh hưởng quan trọng đến trọng tài quốc tế. Trong số những ấn phẩm được xuất bản của ICCA có ảnh hưởng lớn đến trọng tài quốc tế có Báo cáo số 2: Sách hướng dẫn soạn thảo của ICCA các vấn đề hậu cần trong các lệnh về thủ tục hay còn gọi là các quyết định về tố tụng trọng tài. Tài liệu này không chỉ giúp các Hội đồng trọng tài quốc tế mà cả các luật sư tranh tụng giải quyết các vấn đề liên quan đến nhưng thủ tục tố tụng cụ thể trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Hướng dẫn nghiệp vụ (guidelines) và lưu ý (practice note) của các trung tâm trọng tài quốc tế. Khi tiến hành tố tụng trọng tài ở bất kỳ tổ chức trọng tài nào thì luật sư tranh tụng không chỉ cần nghiên cứu các quy tắc trọng tài được ban hành bởi tổ chức đó áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi tổ chức trọng tài mà nên tham khảo các hướng dẫn nghiệp vụ hay lưu ý về thủ tục tố tụng do các tổ chức trọng tài đó ban hành. Trong đó đáng lưu ý là những lưu ý của Tòa trọng tài quốc tế ICC, Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) hay Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông (HKIAC).

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest

4- Căn cứ áp dụng điều ước quốc tế, Luật mẫu của UNCITRAL và các quy định pháp luật về trọng tài

Thỏa thuận trọng tài của các bên: Theo nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên (Party autonomy), thì các bên tranh chấp có quyền tự do thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng, quy tắc tố tụng hay các vấn đề pháp lý cụ thể khác như quy tắc chứng cứ v.v.. Những thỏa thuận này có thể được ghi nhận ngay từ đầu trong thỏa thuận trọng tài hoặc được các bên sửa đổi, bổ sung trong quá trình tố tụng trọng tài sau này.

Quy tắc tố tụng trọng tài: Ngoài thỏa thuận của các bên tranh chấp thì quy tắc tố tụng trọng tài cũng là căn cứ pháp lý cho việc áp dụng luật và các vấn đề thủ tục khác trong tố tụng trọng tài.

Thẩm quyền tự quyết của Hội đồng trọng tài: Trên thực tế, đa phần các vấn đề tố tụng trọng tài cụ thể sẽ do Hội đồng trọng tài quyết định phù hợp với quy tắc trọng tài tương ứng và không trái với thỏa thuận của các bên tranh chấp cũng như những quy định bắt buộc (mandatory rules) của luật tố tụng trọng tài.

Luật tố tụng trọng tài áp dụng tại địa điểm tiến hành tố tụng trọng tài (seat/place of arbitration): Theo giải thích chính thức của UNCITRAL về việc áp dụng Điều V.l (a) của Công ước New York 1958 thì nếu các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng cho việc tiến hành thủ tục trọng tài một cách rõ ràng (expressly) hay hàm ý (impliedly) thi sẽ áp dụng luật của nước nơi phán quyết trọng tài được ban hành. Luật trọng tài của quốc gia thường có 02 loại quy phạm là quy phạm bắt buộc (hay thường được gọi là mandatory rules) hoặc quy phạm tùy nghi, không bắt buộc áp dụng.

Ví dụ điển hình là Luật trọng tài Anh năm 1996 cung cấp một danh sách liệt kê các quy phạm bắt buộc áp dụng tại Phụ lục 1. Như vậy, những quy phạm còn lại đều là những quy phạm tùy nghi. Tương tự như vậy, Luật trọng tài thương mại của Việt Nam cũng có những quy phạm tùy nghi trong đó có cụm từ “nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài không quy định khác, thì...”. Trong mọi trường hợp thì thỏa thuận của các bên tranh chấp cũng như quy tắc tố tụng trọng tài đều không được trái với các quy phạm bắt buộc của luật trọng tài quốc gia, nơi tiến hành tố tụng trọng tài.

Xem thêm: Kỹ năng đàm phán, thương lượng và soạn thảo thỏa thuận trọng tài

Luật sư Nguyễn Thị Yến - Phó giám đốc của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (nguồn tham khảo: Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật và tham gia giải quyết tranh chấp ngoài tòa án của luật sư - Học viện Tư pháp và một số nguồn khác).

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
4.7 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Vấn đề chung về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
2.79874 sec| 1223.727 kb