Chủ thể ký hợp đồng dịch vụ pháp lý gồm đối tượng nào?

13/06/2021
Theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về luật sư thì một bên của hợp đồng dịch vụ pháp lý sẽ là bên cung ứng dịch vụ hay còn gọi là tổ chức hành nghề luật sư còn bên kia là khách hàng. Tuy nhiên, cần lưu ý tổ chức hành nghề luật sư không được ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với những khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ việc tranh chấp, vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật.

kế hoạch hỏi

Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527

Căn cứ vào quy định tại các điều 39 và 49 của Luật luật thấy rằng, chỉ Tổ chức hành nghề luật sư (công ty luật hoặc văn phòng luật sư) ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, sau đó các Tổ chức hành nghề luật sư sẽ bị cho các luật sư làm việc trong tổ chức của mình thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đó. Như vậy có thể nói, ngoài các Tổ chức hành nghề luật sư ra, không một ai cách để ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng.

1. Trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thì có thể ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng được không?

Theo quy định của Điều 23, Luật luật sư thì luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây:

(i) Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư thực hiện bằng việc thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức , nghề luật sư;

(ii) Hành nghề với tư cách cá nhân.

Thông tư số 02/2015/TT-BTP ngày 16/01/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp... định một số mẫu giấy tờ về luật sư và hành nghề luật sư cũng có nh. đến việc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân. Tuy nhiên, cần xác định rõ “hành nghề với tư cách cá nhân” chỉ được áp dụng trong trường hợp một luật sư có đủ điều kiện hành nghề theo quy định nhưng không tham gia vào một Tổ chức hành nghề luật sư nào mà chỉ muốn ký hợp đồng lao động với một doanh nghiệp để trở thành luật sư nội bộ của doanh nghiệp đó. Trong trường hợp này, luật sư phải ký hợp đồng dịch vụ pháp lý dưới dạng hợp đồng lao động. Theo quy định của pháp luật thì luật sư đó phải tiến hành đăng ký “hành nghề luật sư với tư cách cá nhân” trước, sau đó mới được ký kết hợp đồng lao động. Trong trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân nhưng lại ký hợp đồng dịch vụ pháp lý để cung cấp dịch vụ pháp lý thì hậu quả pháp lý là rất có khả năng hợp đồng đó bị tuyên vô hiệu khi xảy ra tranh chấp.

2. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân được ký loại hợp đồng gì với cơ quan, tổ chức?

Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 49 Luật Luật sư năm 2006  thì luật sư hành nghề với tư cách cá nhân chỉ được ký hợp đồng lao động với duy nhất một cơ quan, tổ chức. Quy định như vậy vô hình trung đã hạn chế quyền của luật sư và trái với tinh thần của Điều 21 Bộ luật lao động năm 2012 (xem thêm Điều 19 Bộ luật Lao động năm 2019). Theo đó, người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết”. Vì vậy, nếu coi luật sư hành nghề tự do với vai trò một người lao động thì nên chăng chỉ cấm luật sư hành nghề tự do ký hợp đồng lao động với các cơ quan, tổ chức có quyền lợi đối lập nhau. Trong trường hợp sau khi ký hợp đồng lao động với các cơ quan, tổ chức rồi mâu thuẫn về quyền lợi giữa các cơ quan này mới xảy ra thì yêu cầu luật sư phải chấm dứt hợp đồng lao động với một trong hai cơ quan, tổ chức để tránh xung đột lợi ích.

Luật cũng không cho phép luật sư tham gia vụ việc theo yêu cầu của cơ quan tố tụng (tạm gọi là luật sư chỉ định) và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân được quyền ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng.

Trường hợp luật sư chỉ định: Đối với các luật sư chỉ định, theo tinh thần của khoản 1 Điều 26 Luật Luật sư năm 2006, luật sư được ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với cơ quan chỉ định. Đây có thể là một điểm hạn chế của Luật luật sư. Bởi lẽ, tất cả các mối quan hệ pháp luật phải dựa trên hợp đồng hoặc quy định của pháp luật thì mới có thể xác định được quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Tuy nhiên, Luật luật sư không quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ “luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng” mà chỉ có Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật luật sư có điều khoản liên quan đến chế độ thanh toán tiền thù lao (Điều 19) và chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, nếu luật không quy định cụ thể và cũng không có hợp đồng ràng buộc một cách rõ ràng thì không bên nào hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình đến đâu. Hệ quả là chất lượng cung cấp dịch vụ pháp lý sẽ khó được đảm bảo một cách tốt nhất.

3. Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

(i) Bài viết trong lĩnh vực nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

(ii) Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

(iii) Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Chủ thể ký hợp đồng dịch vụ pháp lý gồm đối tượng nào?

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
1.22514 sec| 951.508 kb