Chủ thể quan hệ pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
1- Khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế đánh vào nhiều loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt cần quy định chặt chẽ để chỉ đạo sản xuất, tiêu dùng và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Trong lịch sử, thuế đặc biệt xuất hiện từ rất sớm. Từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, các loại thuế đánh vào việc tiêu thụ hàng hóa, chẳng hạn như thuế hàng nhập khẩu (thuế nhập khẩu) và thuế tiêu thụ đặc biệt, không quan trọng bằng thuế nhập khẩu trong việc tạo ra nguồn thu cho nhà nước thời đó
Theo thời gian, vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt ngày càng trở nên quan trọng. Các nước đã xem loại thuế này là công cụ cần thiết để tạo và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Loại thuế đầu tiên được áp dụng ở Mỹ là thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu whisky, vào năm 1792, ba năm sau khi Quốc hội Mỹ ban hành quyền đánh thuế đối với công dân Mỹ. Thuế đặc biệt đánh vào hàng hóa: rượu, bia, thuốc lá điếu, xì gà và thuốc lá. Đây là hai loại thuế là nguồn thu nhập chính của chính quyền thuộc địa trong thế kỷ 19.
Tại Việt Nam, thuế tiêu thụ có hiệu lực từ năm 1990. Luật đầu tiên về thuế tiêu thụ đặc biệt này được đánh vào sáu sản phẩm sản xuất trong nước: thuốc lá, rượu, bia, pháo, bài và vàng mã. Sửa đổi Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1993 đã giảm danh mục các mặt hàng chịu thuế đặc biệt xuống còn 4 loại hàng hóa chịu thuế: thuốc lá, rượu, bia và pháo hoa.
Việc cải cách và sửa đổi Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1995 đã đánh dấu một bước phát triển trong quá trình hoàn thiện Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, thể hiện ở việc luật này đã mở rộng đối tượng chịu thuế đặc biệt và thuế không chỉ đối với hàng hóa sản xuất trong nước mà còn cả hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là theo Đạo luật, đạo luật này sửa đổi và bổ sung một số điều của Đạo luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1995. Các mặt hàng chịu thuế là: thuốc lá, rượu, bia, pháo nổ, xăng dầu và ô tô nhập khẩu từ 24 chỗ ngồi trở xuống; xăng và ô tô từ 24 chỗ ngồi trở xuống nhập khẩu là mặt hàng mới được đưa vào Danh mục tiêu thụ đặc biệt phản ánh chính sách của Chính phủ Việt Nam nhằm bảo vệ ngành công nghiệp ô tô trong nước trong giai đoạn này.
Việc thu thuế ở khâu sản xuất giúp nhà nước ghi nhận khá chính xác số lượng hàng hóa chịu thuế thực tế của các nhà máy sản xuất, cũng như năng lực sản xuất của họ, từ đó nhà nước sẽ ra lệnh cho hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể một cách hiệu quả. đối với thuế đặc biệt và có chính sách điều chỉnh thích đáng đối với các hoạt động này. Ngoài ra, việc thu thuế tiêu thụ đặc biệt Đặc biệt trong khâu nhập khẩu, cần thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, vì nguồn thu trong đợt này được quản lý bởi nhà nước cho phép nhập khẩu Quản lý hàng hóa và dịch vụ được coi là đặc biệt và không được khuyến khích.
Trước khi Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, chính phủ cũng đã đưa ra chính sách ưu đãi thuế đối với hàng hóa đặc biệt chịu thuế được sản xuất tại Mỹ. Có thể kể đến như ô tô sản xuất và lắp ráp trong nước, bia tươi, nồng độ cồn thấp, v.v. Chính sách ưu đãi này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất tích lũy, mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất, doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest
2- Cơ quan nhà nước: Chủ thể quyền lực tham gia vào quan hệ pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
Quan hệ pháp luật về thuế đặc biệt là quan hệ phát sinh giữa một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền với đối tượng chịu trách nhiệm thuế và phát sinh trong quá trình thực hiện các đối tượng này. Thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước thuế đặc biệt. Do đó, các chủ thể can thiệp vào quan hệ pháp luật của trọng tài có thể được chia thành hai nhóm: chủ thể quyền lực và chủ thể nghĩa vụ.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực thu thuế xem xét, quyết định việc miễn, giảm thuế đặc biệt bao gồm Bộ Tài chính, Cục Thuế Trung ương và các cơ quan quản lý thu khác. Bộ Tài chính và Cục Thuế chủ yếu tham gia quan hệ pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt với tư cách là cơ quan có thẩm quyền và xem xét, quyết định các trường hợp miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt cho người nộp thuế khi nhận được hồ sơ đề nghị miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt. của đối tượng này sẽ được gửi đến cơ quan thu phí.
Cơ quan hải quan, cơ quan thuế và chủ yếu tham gia vào các quan hệ pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, cơ quan thuế tiêu thụ đặc biệt với tư cách là cơ quan được ủy quyền, có quyền chỉ đạo, kiểm tra, kiểm soát việc thu nộp thuế tiêu thụ đặc biệt và xử phạt khi cần thiết nhằm tăng cường kỷ luật tài chính của thuế tiêu thụ đặc biệt Hải quan chủ yếu tham gia vào các quan hệ pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, trong đó đối tượng nộp thuế là tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Dịch vụ chịu thuế đặc biệt.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest
3- Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt
Theo Điều 4 của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008, người chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là tổ chức và cá nhân sản xuất, nhập khẩu hoặc cung cấp dịch vụ đối với hàng hóa chịu thuế. trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, họ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Do đó, bất kỳ công ty nào sản xuất hoặc nhập khẩu hàng hóa hoặc bán dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đều phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. thúc đẩy sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm, bảo vệ môi trường và điều tiết một phần thu nhập của những người có thu nhập cao trong xã hội, ví dụ các mặt hàng như xe mô tô phân khối lớn hơn 125 cm3 (thường là xe tay ga, có giá trị lớn), máy bay, du thuyền là những mặt hàng xa xỉ được sử dụng những người có thu nhập cao và rất cao trong xã hội.
Bên cạnh các phương thức vận tải nêu trên, các nhà lập pháp cũng đã bổ sung một số mặt hàng và dịch vụ vào danh sách đánh thuế tiêu thụ đặc biệt. Nguyên nhân là do những năm trước đây, trên thực tế, hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc hàng hóa tương tự thuế tiêu thụ đặc biệt đã được đưa ra thị trường nhưng chưa được tính thuế tiêu thụ đặc biệt. Thực tế này đã dẫn đến những bất hợp lý trong việc áp dụng pháp luật và khó thuyết phục xã hội về tính công bằng của chính sách thuế nói chung và thuế đặc biệt nói riêng.
Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2014 đã hạn chế phần nào đối tượng chịu thuế đặc biệt được quy định trong Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 bằng cách sửa đổi ở khoản 1, Điều 2 của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ đạo xóa bỏ một số mặt hàng chịu thuế đồng thời sửa đổi Khoản 3 Điều 3 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 để mở rộng đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nói trên. Có thể thấy, phạm vi đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ ngày 1/1/2016 sẽ ít nhiều bị hạn chế, tuy nhiên đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vẫn phong phú hơn nhiều so với đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. trước khi có Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008.
4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Chủ thể quan hệ pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Chủ thể quan hệ pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm