Chủ thể tham gia và căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật thuế xuất-nhập khẩu

11/09/2022
Thuế là gì? Và chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật thuế xuất-nhập-khẩu xoay quanh những vấn đề nào? Để giúp các bạn đọc được có thêm kiến thức về các vấn đề liên quan đến chủ thể tham gia. Luật Everest xin được thông tin đến mọi người kiến thức pháp lý mới nhất xoay quanh vấn đề trên.

Thuế là gì? Và chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật thuế xuất-nhập-khẩu xoay quanh những vấn đề nào? Để giúp các bạn đọc được có thêm kiến thức về các vấn đề liên quan đến chủ thể tham gia. Luật Everest xin được thông tin đến mọi người kiến thức pháp lý mới nhất xoay quanh vấn đề trên.

Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

Người nộp thuế

Khi thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, điều rất quan trọng là phải xác định  chính xác người nộp thuế là ai. Việc xác định đúng người nộp thuế không chỉ quan trọng. Nó có tác dụng  nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong việc thu thuế xuất khẩu. và thuế nhập khẩu, mà còn giúp tránh  vi phạm Bộ luật  thuế hoặc tranh chấp trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Việc nhập khẩu có thể nảy sinh giữa người nộp thuế và cơ quan thu thuế mà không phải lúc nào cũng dễ giải quyết. 
Theo quy định tại Điều 3 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 (có hiệu lực kể từ ngày 01/9/2016), người nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm:
1.    Chủ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
2.    Tổ chức nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu.
3.    Người xuất cảnh, nhập cảnh có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, gửi hoặc nhận hàng hoá qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
4.    Người được uỷ quyền, bảo lãnh và nộp thuế thay cho người nộp thuế, bao gồm:
a)    Đại lí làm thủ tục hải quan trong trường hợp được người nộp thuế uỷ quyền nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
b)    Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trong trường hợp nộp thuế thay cho người nộp thuế;
c)    Tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng trong trường hợp bảo lãnh, nộp thuế thay cho người nộp thuế;
d)    Người được chủ hàng hoá uỷ quyền trong trường hợp hàng hoá là quà biếu, quà tặng của cá nhân; hành lí gửi trước, gửi sau chuyến đi của người xuất cảnh, nhập cảnh;
đ)    Chi nhánh của doanh nghiệp được uỷ quyền nộp thuế thay cho doanh nghiệp
e)    Người khác được uỷ quyền nộp thuế thay cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật.
5.    Người thu mua, vận chuyển hàng hoá trong định mức miễn thuế của cư dân biên giới nhưng không sử dụng cho sản xuất, tiêu dùng mà đem bán tại thị trường trong nước và thương nhân nước ngoài được phép kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ở chợ biên giới theo quy định của pháp luật.
6.    Người có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế nhưng sau đó có sự thay đổi và chuyển sang đối tượng chịu thuế theo quy định của pháp luật.
7.    Trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Tìm hiểu thêm về: Dịch vụ pháp chế doanh nghiệp
Trước đây, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 quy định người nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là “tổ chức, cá nhân có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”. Quy định này dù có tính khái quát nhưng trên thực tế có thể hiểu đó chính là người đứng tên làm thủ tục xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hoá với cơ quan hải quan tại cửa khẩu.

Người thu thuế

Mặc dù về lý thuyết,  người có thẩm quyền thu thuế là chính phủ, nhưng trên thực tế, thẩm quyền đó thường được thực hiện bởi nhiều cơ quan chính phủ khác nhau do chính phủ thành lập  để thực hiện chức năng đó. là cơ quan thu thuế. Trong lĩnh vực  thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ chức  thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là tổng số cục hải quan. 

Để thực hiện có hiệu quả chức năng  thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, nhà nước không chỉ trao quyền cho Tổng cục Hải quan "là cơ quan chịu trách nhiệm chính mà còn trao quyền toàn diện cho các cơ quan liên quan khác cùng hợp tác với Tổng cục hải quan trong việc hành thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, chẳng hạn như Bộ tài chính; Kho bạc nhà nước; Tổng cục thuế; uỷ ban nhân dân các cấp... Vì các cơ quan này cũng tham gia ở các cấp độ khác nhau và với các vai trò khác nhau trong quá trình  thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nên thường được coi là đối tượng của cơ quan hải quan. Quy định pháp lý về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 

Xem thêm: Dịch vụ thư kí pháp lý

Những căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

Quan hệ pháp luật về thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu là hệ quả tất yếu của việc nhà nước áp dụng pháp luật để điều chỉnh việc thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thuế và thuế nhập khẩu có liên quan đến yếu tố nước ngoài và thường có tác động trực tiếp đến các quan hệ kinh tế quốc tế. giữa các quốc gia, do đó hoạt động này phải được điều chỉnh bởi cả trật tự pháp luật quốc gia nói chung và luật pháp quốc tế. Trong thực tiễn pháp lý, quan hệ thuế xuất nhập khẩu có thể được điều chỉnh bởi cả hai loại  pháp luật, bao gồm cả các quy phạm pháp luật quốc gia này và các quy phạm pháp luật quốc tế .

Các quy phạm pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về thuế xuất-nhập khẩu

Pháp luật quốc gia về thuế xuất  nhập khẩu thường đóng vai trò quan trọng nhất trong việc quy định quyền đánh thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu của một quốc gia. Thực tiễn cho thấy rằng thuế nhập khẩu, giống như  luật  thuế xuất  khẩu quốc gia, thường được quy định  trong một  luật riêng gọi là Đạo luật thuế xuất khẩu hoặc Thuế nhập khẩu, hoặc nó được quy định trong một chương riêng của Đạo luật thuế nhập khẩu. Hiện nay, ở Việt Nam, hầu hết các quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đều được trình bày dưới dạng thống nhất là Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ban hành ngày 06/4/2016. Ngoài ra, một số quy định cụ thể về trình tự, thủ tục hành thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn được quy định trong Luật hải quan số 54/2014/QH13 ban hành ngày 23/6/2014.
Nhìn chung, mặc dù có sự khác nhau nhất định giữa pháp luật các nước trong cách thức thiết kế các quy phạm pháp luật quốc gia về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhưng thực ra, các quy phạm pháp luật này đều thể hiện những vấn đề vô cùng cơ bản như:
-    Xác định chủ thể nộp thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu là ai;
-    Xác định đối tượng chịu thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu là những loại hàng hoá nào;
-    Xác định các mức thuế suất của thuế nhập khẩu (hoặc thuế xuất khẩu) và giá tính thuế hay trị giá hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu (hoặc xuất khẩu);
-    Xác định trình tự thủ tục hành thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (từ khi lập tờ khai hải quan cho tới khi quyết toán thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu);
-    Xác định các trường hợp được miễn, giảm và hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
-    Xác định các loại hành vi vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và chế tài cụ thể đối với những hành vi vi phạm đó.

Xem thêm: Trợ lý pháp lý
Mặc dù các vấn đề cơ bản  trên  được trình bày và diễn giải rất khác nhau trong pháp luật của các nước, nhưng việc xây dựng các vấn đề này đều  hướng tới nguyên tắc chung là đáp ứng yêu cầu cơ bản của lộ trình hội nhập quốc tế mà quốc gia này cam kết trên cơ sở  bảo đảm. chủ quyền quốc gia theo  luật  quốc tế Ngoài các quy phạm pháp luật của quốc gia, các quy phạm pháp luật quốc tế cũng được thiết lập áp dụng như một bộ phận của cơ sở pháp lý cho việc thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia nói chung cần tuân thủ các quy định sau: Pháp luật quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là do nó phục vụ cho việc thúc đẩy và tiến hành các hoạt động thương mại quan hệ với người nước ngoài, quốc gia này phải đồng ý với chung "Sp bị ràng buộc bởi 'các quy tắc mục tiêu' trong thương mại quốc tế, bao gồm cắt giảm thuế quan và  các hàng rào  phi thuế quan đối với  thương mại quốc tế. Hiệp định cắt giảm thuế quan và xóa bỏ hàng rào  phi thuế quan trong thương mại trong hoạt động xuất khẩu 

Xuất nhập khẩu được coi là một trong những nội dung cơ bản của các cam kết quốc tế liên quan đến tự do hóa thương mại, một vấn đề mà  hầu hết các nước trên thế giới đều đã nhận thức và cố gắng tăng cường nhập khẩu để không bị cô lập và tụt hậu một cách đáng nể. các nước khác trong bối cảnh toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới ngày nay. 

Các sự kiện pháp lý

Bên cạnh các quy phạm pháp luật, các tình tiết pháp lý cũng  là một trong những cơ sở xác lập mối quan hệ pháp luật giữa thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu. người nộp thuế và cơ quan thu thuế khi thu thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu  là một loại thực tế pháp lý phổ biến thiết lập mối quan hệ pháp lý về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu. Các hành vi pháp lý này rất đa dạng, nhưng  có thể  được xác định đầy đủ bằng các tiêu chí (ký tự) cơ bản sau:

Một trong số đó là chủ thể của hành vi  là người nộp thuế hoặc cơ quan thu thuế. 

Ví dụ: hành vi nhập khẩu các hàng hoá thuộc diện chịu thuế nhập khẩu của tổ chức, cá nhân sẽ làm phát sinh quan hệ kê khai, tính thuế giữa người nộp thuế với cơ quan thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; hành vi ra thông báo thuế của cơ quan thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (cơ quan hải quan) đối với người nộp thuế sẽ làm phát sinh quan hệ nộp thuế giữa người nộp thuế với Nhà nước; hành vi thụ lí hồ sơ xin hoàn thuế hoặc hồ sơ miễn, giảm thuế làm phát sinh quan hệ hoàn thuế hoặc xét miễn, giảm thuế...
Hai là hành vi pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đều được dự liệu rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và phải được chứng minh bằng các chứng cứ cụ thể.

Ví dụ: theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc xuất, nhập khẩu hàng hoá qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam hoặc đưa hàng từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan ra thị trường trong nước được xem là hành vi pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; còn theo Luật hải quan Indonesia thì việc đưa hàng hoá vào lãnh thổ hải quan được coi như hàng hoá nhập khẩu và phải chịu thuế nhập khẩu.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

Bài viết trong lĩnh vực nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

 

0 bình luận, đánh giá về Chủ thể tham gia và căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật thuế xuất-nhập khẩu

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.60168 sec| 966.773 kb