Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học tư pháp

04/03/2023
Đỗ Duy Hoàng
Đỗ Duy Hoàng
Tâm lý học tư pháp là một ngành khoa học độc lập. Nó là cầu nối giữa khoa học pháp lý và khoa học tâm lý. Tâm lý học tư pháp được coi là một chuyên ngành ứng dụng của khoa học tâm lý. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của nó là các quy luật nảy sinh, phát triển và biểu hiện của các hiện tượng tâm lý, các quy luật hình thành phẩm chất tâm lý của con người trong hoạt động tư pháp.

1- Đối tượng của tâm lý học tư pháp

Tâm lý học tư pháp là một ngành khoa học độc lập. Nó là cầu nối giữa khoa học pháp lý và khoa học tâm lý. Tâm lý học tư pháp được coi là một chuyên ngành ứng dụng của khoa học tâm lý. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của nó là các quy luật nảy sinh, phát triển và biểu hiện của các hiện tượng tâm lý, các quy luật hình thành phẩm chất tâm lý của con người trong hoạt động tư pháp.

Tâm lý học tư pháp dành phần lớn các nghiên cứu của mình vào việc xây dựng các biện pháp, cách thức tác động vào các hoạt động tố tụng nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.

Tâm lý học tư pháp nghiên cứu các quy luật nảy sinh, phát triển của những phẩm chất tâm lý dẫn con người đến thực  hiện các hành vi chổng đối pháp luật, nghiên cứu sự thay đổi và phát triển của những hiện tượng tâm lý trong các hoạt động tố tụng V.V..

Ngoài các quy luật tâm lý nói trên, tâm lý học tư pháp còn nghiên cứu những mô hình hoạt động thực tiễn và đề ra những yêu cầu tâm lý đối với các điều tra viên, thẩm phán, kiểm sát viên, nhằm giúp họ thực hiện tốt các chức năng được giao. Tâm lý học tư pháp cũng nghiên cứu các phương pháp tâm lý áp dụng vào hoạt động tư pháp.

Tâm lý học tư pháp giúp cho các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư pháp có những hiểu biết cần thiết về các quy luật tâm lý, để họ có thể nhanh chóng nghiên cứu, phân tích, đánh giá, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án.

Như vậy, tâm lý học tư pháp là một ngành tâm lý học ứng dụng nghiên cứu các quy luật và các đặc điếm tâm lỵ của con người biểu hiện trong các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh.

2- Nhiệm vụ của tâm lý học tư pháp

Tâm lý học tư pháp nghiên cứu:

- Các cơ sở tâm lý của hành vi tuân thủ pháp luật (ý thức pháp luật, đạo đức, ý thức xã hội, những chuẩn mực xã hội);

- Những khía cạnh tâm lý của hoạt động tư pháp (những khía cạnh tâm lý của hoạt động điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân sự);

- Đặc điểm tâm lý của những người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự (bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...);

- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội, những đặc điểm tâm lý của hành vi phạm tội;

- Cơ sở tâm lý của của hoạt động cải tạo phạm nhân;

- Những phẩm chất tâm lý của những người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân);

- Những khía cạnh tâm lý của các quan hệ tài sản, kinh tế và nhân thân được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự;

- Những tác động tâm lý của pháp luật và của các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với từng cá nhân và các nhóm riêng biệt.

3- Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lý học tư pháp

Tâm lý học tư pháp là một trong những ngành khoa học non trẻ của khoa học tâm lý. Nhưng những thử nghiệm giải quyết một cách hệ thống một số nhiệm vụ của hoạt động tư pháp bằng các phương pháp tâm lý học đã đưa vào từ thế kỷ xvm

Quá trình phát triển của tâm lý học tư pháp có thể chia thành ba giai đoạn:

- Lịch sử sơ khai của tâm lý học tư pháp;

- Sự hình thành của tâm lý học tư pháp như một ngành khoa học độc lập;

- Lịch sử của tâm lý học tư pháp ở thế kỷ XX.

a) Lịch sử sơ khai của tâm lý học tư pháp

Như phần lớn các ngành khoa học mới xuất hiện ở ranh giới những lĩnh vực khác nhau của tri thức loài người, tâm lý học tư pháp trong các giai đoạn phát triển đầu tiên của mình không có tính độc lập và không có những nhà khoa học chuyên ngành. Vì vậy, các nhà tâm lý học, luật học và thậm chí các chuyên gia ở các lĩnh vực khoa học khác cũng đã thử nghiệm giải quyết các vấn đề thuộc môn khoa học này. Giai đoạn phát triển đầu tiên của tâm lý học tư pháp gắn liền với tính tất yếu hương khoa học luật đến với tâm lý học để giải quyết các nhiệm vụ đặc trưng, khi các nhiệm vụ này không thể giải quyết bằng các phương pháp luật học truyền thống. Cũng như nhiều ngành khoa học tâm lý khác, tâm lý học tư pháp đi từ việc xây dựng trừu tượng thuần túy đến sự nghiên cứu thực nghiệm khoa học.

Một trong những tác giả đầu tiên đã nghiên cứu một loạt các khía cạnh tâm lý học tư pháp và tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn là M.M.Sêrbatov (1733-1790). Trong các tác phẩm của mình ông đề nghị: khi soạn thảo pháp luật phải chú ý đến đặc điểm của nhân cách con người, một trong những vấn đề đầu tiên là tăng cường miễn chấp hành hình phạt, ông đã đánh giá cao yếu tố lao động trong việc cải tạo, cảm hóa và giáo dục người phạm tội.

Trong các công trình của mình, I. T. Paxôskov (1652-1726) đã đưa ra những kiến nghị tâm lý về việc hỏi cung bị can và lấy lời khai người làm chứng, ông đã giải thích cách chi tiết hóa lời khai man của người làm chứng như thế nào để nhận được những thông tin chính xác nhằm vạch ra sự gian dối của họ. Đồng thời ông còn đưa ra cách phân chia tội phạm.

Việc truyền bá tư tưởng cải tạo và cảm hóa giáo dục người phạm tội đã buộc pháp luật phải hướng tới tâm lý học để biện giải một cách khoa học các vấn đề này. Nghiên cứu những vấn đề này vào đầu thế kỷ XIX ở Nga tiêu biểu là V.K.Elpatrevski, P.D.Lôdi, L.X.Gordienko V.V..

Tuy vậy, trong thời gian này bản thân môn tâm lý học mang tính siêu hình và .trừu tượng, không thể liên kết với luật hình sự để thảo ra các tiêu chuẩn và các phương pháp xác đáng nghiên cứu nhân cách con người.

Nhiều công trình nghiên cứu về tâm lý học tư pháp xuất hiện ở Nga vào cuối thế kỷ XIX. Đó là các công trình của I.X.Barsev "Quan niệm về khoa học pháp luật hình sự", K.Ia, lanôvitra-Ianhevskôvơ "Những tư tưởng về ngành tư pháp hình sự xét theo quan điểm của tâm lý học và sinh lý học", L.E.Vladimirov "Các đặc điểm tâm lý của người phạm tội trong nghiên cứu hiện đại", A.U.Phrede "Sách đại cương về tâm lý học tư pháp". Trong các công trình này đã bày tỏ những tư tưởng vận dụng các kiến thức tâm lý một cách thuần tuý trong hoạt động cụ thể của các cơ quan điều tra và toà án.

Trong các công trình của các nhà bác học người Đức như I.Gophbauera "Tâm lý trong việc áp dụng các cơ sở của nó vào cuộc sống tư pháp" (1808) và I.Phridrikha "Sự điều hành một cách hệ thống trong tâm lý học tư pháp" đã thử nghiệm sử dụng các số liệu tâm lý khi điều tra tội phạm.

Các vấn đề tâm lý đánh giá lời khai của người làm chứng những thông tin chính xác nhằm vạch ra sự gian dối của họ. Đồng thời ông còn đưa ra cách phân chia tội phạm.

Việc truyền bá tư tưởng cải tạo và cảm hóa giáo dục người phạm tội đã buộc pháp luật phải hướng tới tâm lý học để biện giải một cách khoa học các vấn đề này. Nghiên cứu những vấn đề này vào đầu thế kỷ XIX ở Nga tiêu biểu là V.K.Elpatrevski, P.D.Lôdi, L.X.Gordienko V.V..

Tuy vậy, trong thời gian này bản thân môn tâm lý học mang tính siêu hình và .trừu tượng, không thể liên kết với luật hình sự để thảo ra các tiêu chuẩn và các phương pháp xác đáng nghiên cứu nhân cách con người.

Nhiều công trình nghiên cứu về tâm lý học tư pháp xuất hiện ở Nga vào cuối thế kỷ XIX. Đó là các công trình của I.X.Barsev "Quan niệm về khoa học pháp luật hình sự", K.Ia, lanôvitra-Ianhevskôvơ "Những tư tưởng về ngành tư pháp hình sự xét theo quan điểm của tâm lý học và sinh lý học", L.E.Vladimirov "Các đặc điểm tâm lý của người phạm tội trong nghiên cứu hiện đại", A.U.Phrede "Sách đại cương về tâm lý học tư pháp". Trong các công trình này đã bày tỏ những tư tưởng vận dụng các kiến thức tâm lý một cách thuần tuý trong hoạt động cụ thể của các cơ quan điều tra và toà án.

Trong các công trình của các nhà bác học người Đức như I.Gophbauera "Tâm lý trong việc áp dụng các cơ sở của nó vào cuộc sống tư pháp" (1808) và I.Phridrikha "Sự điều hành một cách hệ thống trong tâm lý học tư pháp" đã thử nghiệm sử dụng các số liệu tâm lý khi điều tra tội phạm.

Các vấn đề tâm lý đánh giá lời khai của người làm chứng đã lôi cuốn nhà toán học người Pháp Laplaxa. Trong tác phẩm "Những kinh nghiệm triết học của thuyết xác suất" được xuất bản ở Pháp nãm 1814, Laplaxa đã nghiên cứu lời khai của người làm chứng song song với kết quả có thể có của bản án. Ồng cho rằng các yếu tố xác suất được hình thành:

+ Từ những xác suất của chính sự kiện mà người làm chứng kể lại;

+ Từ những xác suất của 4 giả thiết (đối với người lấy lời khai)

+ Người làm chứng không nhầm lẫn và không gian dối;

+ Người làm chứng không gian dối, nhưng nhầm lẫn;

+ Người làm chứng không nhầm lẫn, nhưng gian dối;

+ Người làm chứng gian dối và nhầm lẫn.

b) Sự hình thành của tâm lý học tư pháp như một nghành khoa học độc lập

Tâm lý học tư pháp được hình thành vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của tâm lý học, tâm thần học và một loạt các ngành khoa học pháp lý (trước tiên là - luật hình sự).

Sự phát triển của tâm lý học, tâm thần học và luật học đã dẫn đến tính tất yếu của việc hình thành tâm lý học tư pháp như một ngành khoa học độc lập. Vào năm 1899 P.I.Côvalevxki đã đề xuất vấn đề: Phân chia tâm lý học bệnh nhân và tâm lý học tư pháp; đưa những ngành khoa học này vào chưong trình giáo dục khoa học pháp lý. Tâm lý học tư pháp ở Đức được phát triển mạnh mẽ hơn cả. Ở đây lần đầu tiên có sự tổng hợp theo kinh nghiệm các yếu tố liên quan đến đặc điểm tâm lý của hành vi phạm tội, tâm lý nhân cách của người phạm tội và đặc điểm tâm lý lời khai của người làm chứng đã bắt đầu được thực hiện rộng rãi.

Cuối thế kỷ XIX cùng với sự ra đời của tội phạm học, tâm lý học tội phạm cũng được hình thành.

Năm 1898, nhà tội phạm học Gans Gross đã sáng lập ra tác phẩm lớn "Tâm lý học tội phạm", ông cho rằng: Tâm lý học tư pháp là một ngành tâm lý học ứng dụng, cần có ngành khoa học tâm lý ứng dụng đặc trưng để nắm bắt những quy tắc điều khiển các quá trình tâm lý trong hoạt động tư pháp".

Trong tác phẩm "Tâm lý học tội phạm", G. Gross đã sử dụng rộng rãi các tư liệu từ lĩnh vực tâm lý học thực nghiệm (kết quả nghiên cứu của V. Vuntơ, G.Ebbingauz, G. Ribo, A. Bine v.v.) và đã chỉ ra ý nghĩa của tư liệu này đối với tội phạm học.

Đầu thế kỷ XX trong tâm lý học tư pháp bắt đầu xuất hiện các phương pháp thực nghiệm điều tra.

Phần lớn các công trình ở giai đoạn này đều dành cho việc nghiên cứu tâm lý lời khai của người làm chứng. Như công trình của I.N.Khôntrev "Lời gian dối viển vông", Gr. Portyganlov "lời khai của người làm chứng" (1903), E.M.Culiser "Tâm lý lời khai của người làm chứng và điều tra tư pháp" (1904). về đề tài này đã có những bài báo cáo của M. M. Khơmiancov.

Trong nghiên cứu tâm lý điều tra hành vi phạm tội bước tiến quan trọng là áp dụng một cách trực tiếp phương pháp thực nghiệm tâm lý. Một trong những nhà sáng lập ra phương pháp này là nhà tâm lý học người Pháp Anphređ Bine. Lần đầu tiên ông đã nghiên cứu về sự ảnh hưởng của ám thị đối với lời khai của trẻ em bằng con đường thực nghiệm. Năm 1900 ông đã viết cuốn sách "ám thị". Trong một chương của cuốn sách này ông đã đề cập đến sự ảnh hưởng của ám thị đến lời khai của trẻ em.

Nhà tâm lý học người Đức Vinliam Stern đã tiến hành một loạt các thực nghiệm về tâm lý lời khai của người làm chứng. Ông đă cộng tác với G. Gross xuất bản cuốn tạp chí "Những báo cáo về tâm lý của lời khai" (Leipzig, 1903 - 1906).

Việc nghiên cứu tâm lý học tội phạm được tiến hành ở nhiều nước: Ở Pháp có Klapaređ, ở Mỹ có Mêiers, cũng như Mikin Cettel vào năm 1895 đã tiến hành thực nghiệm trí nhớ của sinh viên và sau đó lập chỉ số mức độ chính xác của lời khai người làm chứng. Ờ Nga có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề tâm lý của lời khai người làm chứng, như M. M. Khômiacov, M.P.Bukhvanlova, A. N. Berxtein, E. M. Culisev V.V.. Năm 1905, tại đây đã ra tuyển tập "Những vấn đề tâm lý. Tính gian dối và những lời khai của người làm chứng".

Thế kỷ XIX Trezare Lômbrôzo là một trong những người đầu tiên thử giải thích bản chất của hành vi phạm tội theo quan điểm chủng tộc học. Đến ngày nay thuyết của Lômbrôzo vẫn được kế tục. Những tiếng vang của thuyết này có thể tìm thấy trong các thuyết khoa học hiện đại, như trong học thuyết Phrớt và học thuyết Phrớt mới về sự thù địch bẩm sinh và những ham mê phá hoại.

Cuối thế kỷ XIX, các quan niệm tâm lý học và xã hội học về bản chất của hành vi phạm tội được mở rộng. Các nhà tâm lý học và xã hội học như Gabriel Tarđ, Emil Diurkgeim, Maks Veber, L. Le vi - Briul v.v. đã băt đâu quan tâm đến những nguyên nhân của tình trạng phạm tội.

Vào những năm đầu tiên của chính quyền Xô Viết, sự quan tâm của xã hội đến các vấn đề về hoạt động tư pháp và về nhân thân người phạm tội đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của tâm lý học tư pháp. Ngay từ ngày đầu thành lập, Nhà nước Xô Viết đã bắt đầu tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa tình trạng phạm tội và các cách thức để cải tạo, cảm hóa, giáo dục người vi phạm pháp luật. Năm 1925 lần đầu tiên trên thế giới ở Liên Xô (cũ) đã thành lập Viện quốc gia nghiên cứu tình trạng phạm tội và tội phạm. Trong vòng năm năm hoạt động của mình Viện đã dành nhiều công trình khoa học lớn cho ngành tâm lý học tư pháp. Nhiều viện và cơ quan nghiên cứu về tội phạm, về nhân thân người phạm tội đã được thành lập ở Matxcơva, Lêningrát, Saratov, Kiev, Kharcov, Minsk, Bacu V.V..

Nhà tâm lý học A. R. Luria đã tiến hành những nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm tâm lý thực nghiệm. Phòng thí nghiệm này được thành lập năm 1927 tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Matxcơva. Ông nghiên cứu những khả năng áp dụng các phương pháp tâm lý thực nghiệm đê điều tra hành vi phạm tội.

Trong thời kỳ này A. p. Cônhi cũng góp phần lớn lao vào sự phát triển của tâm lý học tư pháp. Năm 1922 ông đã viết cuốn sách "Trí nhớ và chú ý", trong cuốn sách này đã trình bày các vấn đề về lời khai của người làm chứng.

Nhà tâm lý học Nga A. V. Pêtrovski đã đánh giá thực chất của sự nghiên cứu tâm lý học tư pháp ở giai đóạn này như sau: Vào những năm 20 "Tâm lý học tư pháp - là ngành khoa học rộng lớn và có uy tín, nghiên cứu điều kiện phạm tội, đời sống và tâm lý của các nhóm tội phạm khác nhau, tâm lý lời khai của người làm chứng và giám định tâm thần học tư pháp, tâm lý cải tạo lao động".

Vào đầu những năm 30, việc nghiên cứu tâm lý học tư pháp cũng như việc nghiên cứu các lĩnh vực tâm lý học lao động, tâm lý xã hội, tâm lý y học đều dừng lại, và đến giữa những năm 50 sự phát triển của ngành khoa học này bị gián đoạn.

Từ những năm 60 trở đi, những vấn đề bức thiết về tâm lý học tư pháp lại bắt đầu được thảo luận. Khi đó ở các nước phương tây, các công trình khoa học được công bố: R.Luvaz "Tâm lý học và tình trạng phạm tội" (Gamburg, 1960); G. Tokh "Tâm lý học tư pháp và tâm lý học tội phạm" (New York, 1961), T.Bôgđan "chương trình về tâm lý học tư pháp".

Năm 1965-1966, Bộ giáo dục Liên Xô (cũ) đã ra quyết định đưa môn tâm lý học tư pháp vào giảng dạy ở các trường đại học luật của các thành phố Matxcơva, Lêningrát, Minsk V.V..

Tháng 5 năm 1971, ở Matxcơva đã tổ chức hội nghị lần đầu tiên toàn liên bang về tâm lý học tư pháp. Chính hội nghị này đã tạo ra những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển của tâm lý học tư pháp. Và sau một thời gian một loạt các công trình khoa học trong lĩnh vực tâm lý học tư pháp được công bố. Như A.V.Đulov "Tâm lý học tư pháp" (Minsk, 1975); V.L.Vaxilev "Tâm lý học tư pháp. Bài tập thực hành đối với điều tra viên" (M. 1979) và "Tâm lý học pháp lý" (M, 1974) V.V..

Tháng 9 năm 1986 tại thành phố Tartu (Etstônhia), đã tổ chức hội nghị toàn liên bang về tâm lý học tư pháp. Trong hội nghị này người ta đã thảo luận những vấn đề về phương pháp và cấu trúc của tâm lý học tư pháp.

Tháng 6 năm 1989, tại Lêningrát đã tổ chức cuộc hội thảo toàn liên bang của các giảng viên thuộc chuyên ngành tâm lý pháp lý của cả nước. Các thành viên của cuộc hội thảo đã xem xét và thông qua báo cáo của V.L.Vaxilev về chương trình giảng dạy đại học của môn "Tâm lý học pháp lý". Cãn cứ vào chương trình này, V.L. Vaxilev đã viết giáo trình "Tâm lý học pháp lý" (M. 1991); ĨƯ.V.Trupharovski "Tâm lý học pháp lý" (M. 1997); M.I. Enhinkev "Những cơ sở của tâm lý học đại cương và tâm lý học pháp lý" (M. 1997).

Ngày nay, ở Liên bang Nga cũng như ở một số nước trên thế giới, trong lĩnh vực tâm lý học tư pháp việc nghiên cứu được tiến hành trên những phương diện:

- Những vấn đề chung của tâm lý học tư pháp (đối tượng, nhiệm vụ, hệ thống các phương pháp, lịch sử, mối liên hệ với các ngành khoa học khác);

- Tâm lý của hoạt động điều tra;

- Tâm lý của hoạt động xét xử;

- Đặc điểm tâm lý của những người vi phạm pháp luật ở lứa tuổi chưa thành niên;

- Tâm lý của hoạt động cải tạo lao động.

Tổng hợp từ Giáo trình Tâm lý học Tư pháp - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác.

0 bình luận, đánh giá về Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học tư pháp

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
1.15206 sec| 1030.844 kb