Hãng Luật (Law Firm)

"Luật sư luôn có cơ hội làm việc tử tế. Nhưng trước hết, bạn cần là một Luật sư tử tế".

Luật sư Phạm Ngọc Minh, Giám đốc điều hành Công ty Luật TNHH Everest

Hãng Luật (Law Firm)

Hãng Luật (Law Firm) là doanh nghiệp do một hoặc nhiều Luật sư (Lawyers) thành lập để cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng (cá nhân hoặc doanh nghiệp).

Trên thế giới, Hãng Luật được tổ chức theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào khu vực tài phán mà Hãng Luật hành nghề, phổ biến là loại hình: [1] Doanh nghiệp tư nhân; [2] Quan hệ Đối tác chung; [3] Công ty trách nhiệm hữu hạn; [4] Công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn; [5]  Công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên nghiệp; [6] Tập đoàn chuyên nghiệp; [7] Hiệp hội nghề nghiệp.

Tại Việt Nam, Hãng Luật theo quy định của Luật Luật sư gọi chung là tổ chức hành nghề luật sư, được tổ chức theo 03 hình thức: [1] Văn phòng Luật sư (Doanh nghiệp tư nhân), [2] Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn, [3] Công ty Luật hợp danh, cung cấp các dịch vụ pháp lý phổ biến: [1] Tư vấn pháp luật, [2] Đại diện cho khách hàng, [3] Tham gia tố tụng tại tòa án, [4] Các hỗ trợ pháp lý khác như thủ tục hành chính, dịch thuật, xác nhận giấy tờ.

Liên hệ

I- TỔ CHỨC CỦA CÁC HÃNG LUẬT (LAW FIRM)

1- Tổ chức của Hãng Luật trên thế giới

Các Hãng Luật được tổ chức theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào khu vực tài phán mà Hãng Luật hành nghề.

[1] Doanh nghiệp tư nhân (sole proprietorship): trong đó Luật sư chính là Hãng Luật, họ chịu trách nhiệm về mọi khoản lãi, lỗ và trách nhiệm pháp lý. Đây thường là doanh nghiệp nhỏ hoặc siêu nhỏ, nhưng là mô hình phổ biến, chiếm đa số.

[2] Quan hệ đối tác chung (General partnership): trong đó tất cả các Luật sư là thành viên của Hãng Luật, họ chia sẻ quyền sở hữu, lợi nhuận và trách nhiệm pháp lý.

[3] Công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn (Limited liability partnership, viết tắt: LLP): trong đó các Luật sư chủ sở hữu là Đối tác với nhau, nhưng không có Đối tác nào chịu trách nhiệm trước bất kỳ chủ nợ nào của Hãng Luật, cũng như không có Đối tác nào chịu trách nhiệm về bất kỳ sơ suất nào của bất kỳ Đối tác khác. Công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn bị đánh thuế như một Công ty hợp danh (Partnership) trong khi được hưởng sự bảo vệ trách nhiệm pháp lý của một Công ty (Corporation).

[4] Công ty trách nhiệm hữu hạn (Limited liability company, viết tắt: LLC): trong đó Luật sư chủ sở hữu được gọi là Thành viên (Members), nhưng không chịu trách nhiệm trực tiếp với các chủ nợ.

[5] Công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên nghiệp (Professional limited liability company, viết tắt: PLLC), được một số quốc gia cho phép Hãng Luật tổ chức theo hình thức này.

[6] Tập đoàn chuyên nghiệp (Professional corporation): phát hành cổ phiếu cho các Luật sư theo cách tương tự như cổ phiếu của một Tập đoàn kinh doanh (Business corporation).

[7] Hiệp hội nghề nghiệp (Professional association): hoạt động tương tự như một Công ty chuyên nghiệp (Professional corporation) hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn (Limited liability company).

2- Tổ chức của Hãng Luật tại Việt Nam

Tại Việt Nam, theo quy định của Luật Luật sư, Hãng Luật được gọi chung là tổ chức hành nghề luật sư, gồm 03 hình thức: [1] Văn phòng Luật sư, [2] Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn, [3] Công ty Luật hợp danh.

Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất hai (02) năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức; Luật Luật sư cũng quy định tổ chức hành nghề luật sư phải có trụ sở làm việc.

Một (01) luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một (01) tổ chức hành nghề luật sư. Trong trường hợp luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập một công ty luật thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký hoạt động tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành viên.

Trong thời hạn ba mươi (30) ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động, các luật sư thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư không phải là thành viên của Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư phải chuyển về gia nhập Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư.

[a] Văn phòng luật sư: là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành lập, được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Luật sư thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Văn phòng luật sư có con dấu, tài khoản theo quy định của pháp luật. Người đại diện theo pháp luật của văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng. Tên của văn phòng luật sư do luật sư lựa chọn và theo quy định của Luật Đoành nghiệp nhưng phải bao gồm cụm từ “văn phòng luật sư".

[b] Công ty luật: bao gồm công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Thành viên của công ty luật phải là bao gồm cả thành viên thành lập và thành viên tham gia góp vốn. Công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên phải do ít nhất hai (02) luật sư thành lập. 

Công ty luật hợp danh không có thành viên góp vốn, đồng thời các thành viên phải chịu trách nghiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của công ty. Thành viên của công ty luật trách nhiệm hữu hạn cho dù là loại hình một (01) thành viên hay hai (02) thành viên trở lên chỉ chịu trách nhiệm về nghĩa vụ của công ty trong phạm vi góp vốn của mình.

Người đại diện theo pháp luật của công ty luật là giám đốc công ty. Giám đốc công ty luật có hai (02) thành viên trở lên phải là thành viên của công ty và do các thành viên thỏa thuận. Luật sư làm chủ sở hữu công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên là giám đốc công ty. 

Tên của công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn theo quy định của Luật doanh nghiệp, nhưng phải bao gồm cụm từ “công ty luật hợp danh” hoặc “công ty luật trách nhiệm hữu hạn”.

Xem thêm: Về Công ty Luật TNHH Everest

II- CƠ CẤU VÀ THĂNG TIẾN TRONG CÁC HÃNG LUẬT

1- Quan hệ đối tác (Partnership)

Mô hình phổ biến của Hãng Luật là Công ty hợp danh hoặc là các Công ty hợp danh hữu hạn. Các Luật sư hợp danh là chủ sở hữu chung của Hãng Luật, được gọi các Đối tác (Partners). Một mô hình khá phổ biến của Hãng Luật là mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn. Các Luật sư là chủ sở hữu của Hãng Luật là công ty trách nhiệm hữu hạn được gọi các Thành viên (Members). Trong Hãng Luật, các Đối tác, Thành viên (gọi chung là Đối tác) đồng thời là Giám đốc kinh doanh. Họ chịu trách nhiệm chính mang lại doanh thu cho Hãng Luật. 

Hãng Luật là mô hình Công ty đối nhân (Partner company). Nghĩa là, các Đối tác của Hãng Luật (trừ Văn phòng luật sư - doanh nghiệp tư nhân) liên kết với nhau chủ yếu dựa vào nhân thân, liên kết về vốn là yếu tố thứ yếu. Bởi các Đối tác liên kết với nhau là những người có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp, cho nên sự liên kết này rất chặt chẽ. Và do vậy, Hãng Luật cũng hạn chế số người có thể trở thành Đối tác. Đặc điểm liên kết về nhân thân của Đối tác không thích hợp với hầu hết các ngành nghề kinh doanh, nhưng đặc biệt phù hợp với nghề luật sư - đòi hỏi trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, danh tiếng cao. 

Việc trở thành Đối tác tại các Hãng Luật lớn hoặc vừa là một vinh dự và mang lại uy tín và lợi thế cho cả Hãng Luật và Đối tác. Các Hãng Luật do đó thường sẽ đăng quảng cáo trên các ấn phẩm chuyên ngành để thông báo ai đã trở thành Đối tác.

Các nhân sự khác của Hãng luật sẽ được tổ chức xung quanh các Đối tác. Họ có thể là:

[a] Luật sư cộng sự (Associate attorney) là một Luật sư cấp thấp hơn (Lower-Level Lawyer) so với vị trí Đối tác hoặc Thành viên trong Hãng Luật. Họ làm việc với triển vọng trở thành Đối tác hoặc Thành viên của Hãng Luật. Thông thường, Luật sư cộng sự có thể phải đợi tới hơn 10 năm trước khi Hội đồng Luật sư của Hãng Luật đưa ra quyết định về việc Cộng sự này có trở thành Đối tác, Thành viên hay không.

[b] Nhân viên hỗ trợ: họ giúp Luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý trong Hãng Luật, như Trợ lý pháp lý (Paralegal), Thư ký pháp lý (Legal secretary). Hãng Luật có thể có những nhân viên khác như Giám đốc công nghệ thông tin (Information Technology Manager), Giám đốc nhân sự (Human Resource Manager), Nhân viên văn thư (Records Clerk), Kế toán viên (Accountant).

Nhiều Hãng Luật có Chính sách "Tăng hoặc Giảm" (Up or Out policy), còn có tên gọi là Hệ thống Cravath (The Cravath system), bởi chính sách này được Paul Cravath - Đối tác của Cravath, Swaine & Moore (hãng Luật Cravath) lần đầu tiên ứng dụng vào đầu Thế kỷ XX, sau đó được áp dụng rộng rãi đặc biệt là trong các Hãng Luật lâu năm, có uy tín, còn gọi là Công ty Giày trắng (White shoe firms). Theo đó, các Cộng sự không trở thành Đối tác được yêu cầu từ chức và có thể gia nhập một Hãng Luật khác, hoặc trở thành Người hành nghề độc lập, hoặc là làm việc cho bộ phận pháp lý của một doanh nghiệp (pháp chế nội bộ), hoặc thay đổi ngành nghề. Có thể nói, tỷ lệ kiệt sức trong nghề Luật sư đặc biệt cao.

Theo truyền thống, các Đối tác được chia sẻ trực tiếp lợi nhuận của Hãng Luật, sau khi trả lương cho nhân viên, tiền thuê văn phòng và các chi phí đồ nội thất, đồ dùng văn phòng, sách cho thư viện luật (hoặc đăng ký cơ sở dữ liệu).

Khoản bù đắp (compensation) - thuật ngữ chỉ khoản chi bằng tiền mà Hãng Luật bỏ ra để đổi lấy những đóng góp (thời gian, kỹ năng, kiến thức... và nó đem lại hiệu quả hoạt động cho Hãng Luật). Khoản bù đắp còn là sự kết hợp của các khoản như tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm y tế, tiền nghỉ phép, hỗ trợ nhà ở.

Phương thức bù đắp cho Đối tác rất khác nhau giữa các Hãng Luật. Tại các Hãng Luật lớn của Mỹ, "sự chênh lệch bù đắp" - tức là tỷ lệ giữa mức lương của Đối tác cao nhất và mức lương của đối tác thấp nhất giữa các Hãng Luật nằm trong khoảng từ 3:1 đến 24:1. Mức bù đắp chênh lệch cao hơn nhằm thúc đẩy hiệu suất cá nhân, trong khi mức chênh lệch thấp hơn nhằm thúc đẩy tinh thần đồng đội và tính tập thể.

Nhiều Hãng Luật lớn đã chuyển sang mô hình "Hợp tác hai tầng" (Two-tiered partnership model) với các Đối tác góp vốn (Equity partner) và Đối không góp vốn (Non-equity partner) hay còn gọi là Đối tác ăn lương (Salaried Partner). Trong đó, Đối tác góp vốn có phần vốn góp sở hữu, được chia sẻ lợi nhuận (và thua lỗ) của Hãng Luật. Còn lại, Đối tác không góp vốn thường được trả một mức lương cố định, thông thường sẽ cao hơn nhiều so với các Cộng sự (Associate), đồng thời họ thường được cấp một số quyền biểu quyết hạn chế đối với hoạt động của Hãng Luật.

Các Đối tác trong Công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn (LLP) phần lớn có thể hoạt động độc lập, có thể phát triển các hoạt động kinh doanh mới và phục vụ các khách hàng cũ của họ.

Mối Quan hệ đối tác liên tục lâu dài nhất ở Mỹ là của Hãng Luật Cadwalader, Wickersham & Taft, được thành lập vào năm 1792, tại Thành phố New York. Hãng Luật lâu đời nhất hoạt động liên tục tại Mỹ là Rawle & Henderson, được thành lập năm 1783, tại Philadelphia.

2- Chấm dứt Quan hệ đối tác

Trừ trường hợp Đối tác phạm tội hoặc sơ suất, mắc bệnh tâm thần gây rối loạn hoặc không đóng góp vào lợi nhuận chung của Hãng Luật thì tất hiếm khi một Đối tác bị các Đối tác khác ép buộc ra đi. Tuy nhiên, một số Hãng Luật lớn đã ghi vào Thỏa thuận hợp tác của họ quy định tuổi nghỉ hưu bắt buộc đối với các Đối tác, có thể từ 65 tuổi trở lên. Ngược lại, hầu hết các Giám đốc điều hành của Hãng Luật có nguy cơ bị sa thải cao hơn nhiều, ngay cả khi nguyên nhân cơ bản không phải là lỗi trực tiếp của họ. Trên toàn thế giới, tuổi nghỉ hưu của Đối tác có thể khó ước tính và thường rất khác nhau, đặc biệt là vì ở nhiều quốc gia, việc quy định tuổi nghỉ hưu là bất hợp pháp.

3- Vai trò của Luật sư cố vấn

Tại Mỹ, Canada và Nhật Bản, nhiều Hãng Luật lớn và vừa có Luật sư với chức danh công việc là "Cố vấn đặc biệt" (Special Counsel), "Cố vấn" (Counsel). 

Những Luật sư này là những người làm việc cho Hãng Luật, tương tự như Luật sư cộng sự. Tuy nhiên, không giống như các Luật sư cộng sự thông thường, họ thường có khách hàng riêng, độc lập xử lý các vụ việc riêng của họ và quản lý các Luật sư cộng sự của họ. Các mối quan hệ này được cấu trúc để cho phép nhiều Luật sư cấp cao hơn chia sẻ các nguồn lực và Thương hiệu của Hãng Luật, nhưng không chia sẻ sự quản lý hoặc lợi nhuận. Chức danh Cố vấn thường được thấy ở những Luật sư cộng sự không trở thành Đối tác, hoặc những người sau đó được tuyển dụng vào các Hãng Luật khác, hoặc những người làm Cố vấn nội bộ và sau đó quay trở lại Hãng Luật.

Tại một số Hãng Luật, danh hiệu "Luật sư cố vấn" được trao cho các Đối tác đã nghỉ hưu, những người vẫn duy trì mối quan hệ với Hãng Luật. Đôi khi "Cố vấn" đề cập đến các Luật sư cao cấp hoặc có kinh nghiệm, chẳng hạn như tư vấn pháp luật nước ngoài, có kinh nghiệm chuyên môn trong các khía cạnh cụ thể của pháp luật và thực tiễn. Họ được các Hãng Luật lớn thuê làm nhà thầu độc lập như một thỏa thuận đặc biệt, điều này có thể mang lại kết quả có lợi cho Quan hệ đối tác. Trong một số trường hợp, "Cố vấn" có thể được coi là trạng thái chuyển tiếp trong Hãng Luật.

4- Sáp nhập và Mua lại các Hãng luật

Việc sáp nhập, mua lại, chia tách và tổ chức lại xảy ra giữa các Hãng Luật, tương tự như trong các doanh nghiệp khác. Những quan điểm về đạo đức nghề nghiệp hoặc xung đột về lợi ích có thể dẫn đến việc các Đối tác tách ra để hoạt động độc lập hơn, phục vụ khách hàng của họ. Các Hãng Luật cũng sáp nhập hoặc kết nạp thêm các Luật sư có kinh nghiệm, hoặc để có được khách hàng hoặc lĩnh vực hành nghề mới. Kết quả thường khác nhau giữa các Hãng Luật trải qua quá trình chuyển đổi như vậy.

Các Hãng Luật có được các lĩnh vực hoặc bộ phận mới thông qua sáp nhập hoặc tuyển dụng thường sẽ có tiêu chuẩn khắt khe hơn, và thường mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Khi đó tổ chức và nguồn lực của Hãng Luật chuyển đáng kể sang các bộ phận mới đó. Tuy nhiên, các Hãng Luật có thể được sáp nhập giữa các Luật sư với tư cách là Đối tác vì mục đích chia sẻ tài chính và nguồn lực.

Việc sáp nhập Hãng Luật có xu hướng mang tính chất phân loại, trong đó chỉ những Hãng Luật hoạt động trong các hệ thống pháp luật tương tự mới có khả năng sáp nhập. Ví dụ: các Hãng Luật của Mỹ thường sẽ hợp nhất với các Hãng Luật của Anh hoặc các Hãng Luật từ các khu vực pháp lý Thông luật khác. Một ngoại lệ đáng chú ý là King & Wood Mallesons, một Hãng Luật đa quốc gia là kết quả của sự hợp nhất giữa một Hãng Luật của Úc và một Hãng Luật của Trung Quốc.

Mặc dù sáp nhập phổ biến hơn ở các nền kinh tế tốt hơn, chậm lại một chút trong thời kỳ suy thoái, các Hãng Luật lớn đôi khi sử dụng sáp nhập như một chiến lược để tăng doanh thu trong thời kỳ suy thoái. Tuy nhiên, dữ liệu từ Altman Weil chỉ ra rằng, chỉ có bốn (04) Hãng Luật sáp nhập trong nửa đầu năm 2013, so với tám (08) Hãng Luật trong cùng kỳ năm 2012, và điều này được họ coi là dấu hiệu cho thấy sự suy giảm tinh thần đối với nền kinh tế hợp pháp và số lượng yêu cầu.

Xem thêm: Đối tác (Partner)

III- MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM QUAN TRỌNG

1- Hạn chế về sở hữu Hãng Luật

Nhiều quốc gia quy định: chỉ Luật sư mới có quyền sở hữu hoặc là người quản lý Hãng Luật. Do đó, các Hãng Luật không thể huy động vốn thông qua Phát hành cổ phiếu ra công chúng trên thị trường chứng khoán, như các Tập đoàn. Họ phải huy động vốn thông qua các khoản góp vốn bổ sung từ các Đối tác góp vốn (Parners) hiện có, hoặc phải vay nợ - thường dưới hình thức hạn mức tín dụng được đảm bảo bằng các khoản phải thu của Hãng Luật.

Tại Mỹ, quy định hạn chế quyền sở hữu của người không phải Luật sư được Hiệp hội Luật sư Mỹ (the American Bar Association, ABA) quy định thành đoạn (d) của Quy tắc 5.4 của Quy tắc Mẫu về Ứng xử Chuyên nghiệp (Model Rules of Professional Conduct). Quy tắc mẫu này sau đó đã được thông qua dưới hình thức này hay hình thức khác trong tất cả các khu vực tài phán của Mỹ, ngoại trừ Đặc khu Columbia (gọi là Quy tắc của D.C - D.C's rule). Tuy nhiên, Quy tắc của D.C được điều chỉnh trong phạm vi hẹp, để chỉ cho phép sở hữu cổ phần bởi những Đối tác không phải là Luật sư, những người tích cực hỗ trợ Luật sư của Hãng Luật cung cấp dịch vụ pháp lý. Quy tắc của D.C không cho phép các Đối tác không phải Luật sư được bán cổ phần sở hữu cho các Nhà đầu tư không phải là Luật sư.

Tại Anh cũng có quy định tương tự: cấm những người không phải là Luật sư được sở hữu Hãng Luật. Tuy nhiên, Đạo luật Dịch vụ pháp lý năm 2007 (The Legal Services Act of 2007) có những cải cách, theo đó các Hãng Luật đã có thể tiếp nhận một số lượng hạn chế Đối tác không phải là Luật sư, đồng thời Luật sư được phép tham gia vào nhiều mối quan hệ kinh doanh với những người không phải là Luật sư và các Doanh nghiệp không thuộc sở hữu của Luật sư. Ví dụ: quy định này đã cho phép các Công ty, Ngân hàng, Tổ chức cộng đồng thuê Luật sư để cung cấp các dịch vụ pháp lý cơ bản tại trụ sở của họ hoặc cung cấp Dịch vụ pháp lý trực tuyến cho khách hàng.

Hạn chế quyền sở hữu Hãng Luật là quy định gây ra nhiều tranh cãi. Nhiều người trong Nghề Luật, đáng chú ý là Hiệp hội Luật sư Mỹ (The American Bar Association) cho rằng, quy định này là cần thiết để ngăn chặn "xung đột lợi ích". Bởi, trong hệ thống tranh tụng, Luật sư có nhiệm vụ trở thành người biện hộ trung thành thay mặt cho khách hàng. Luật sư có nghĩa vụ không lập hóa đơn quá mức cho khách hàng. Ngoài ra, với tư cách là một chức danh Tư pháp, Luật sư có nghĩa vụ phải trung thực và không nộp đơn kiện hoặc đưa ra những lời bào chữa phù phiếm.

Do đó, nhiều người trong Nghề Luật tin rằng, nếu một Luật sư làm việc với tư cách là cổ đông của một Hãng Luật giao dịch công khai có thể bị cám dỗ để đánh giá các quyết định về ảnh hưởng của chúng đối với giá cổ phiếu và các cổ đông. Điều này sẽ mâu thuẫn trực tiếp với nghĩa vụ của Luật sư đối với khách hàng và trước Tòa án. 

2- Chỉ số tài chính của Hãng Luật

Ba (03) số liệu thống kê tài chính thường được sử dụng để đo lường và xếp hạng hoạt động của các Hãng Luật:

[1] Lợi nhuận trên mỗi Đối tác góp vốn (Profits Per Equity Partner, viết tắt: PPEP hoặc PPP): Thu nhập hoạt động ròng chia cho số lượng Đối tác góp vốn. PPP cao thường tương quan với uy tín của một Hãng Luật và sức hấp dẫn của nó đối với các Đối tác cổ phần tiềm năng. Tuy nhiên, chỉ số này dễ bị thao túng bằng cách phân loại lại các đối tác ít sinh lời hơn thành các đối tác phi vốn chủ sở hữu.

[2] Doanh thu trên mỗi Luật sư (Revenue Per Lawyer, viết tắt: RPL): Tổng doanh thu chia cho số lượng Luật sư. Thống kê này cho thấy khả năng tạo doanh thu của các Luật sư của Hãng Luật nói chung, nhưng không tính đến chi phí của Hãng Luật như Bù đắp liên kết và Chi phí văn phòng.

[3] Thù lao trung bình của các Đối tác (Average Compensation of Partners, viết tắt: ACP): Tổng số tiền trả cho các Đối tác  chia cho tổng số Đối tác. Chỉ số này thống kê có vẻ toàn diện hơn so với chỉ số PPP, nhưng vẫn dễ bị thao túng bằng cách thay đổi chính sách chi phí và phân loại lại các Đối tác ít sinh lời hơn thành Hãng Luật liên kết.

Ví dụ:

[1] Dentons (Verein): thành lập năm 2013. Ban lãnh đạo cấp cao của Dentons làm việc chủ yếu tại các trụ sở tại Bắc Kinh, London, Washington DC (Dentons không có trụ sở chính, mô hình hoạt động: Hiệp hội, Verein). Vào tháng 11/2015, Dentons trở thành Hãng luật lớn nhất thế giới tính theo số lượng luật sư và có nhiều văn phòng nhất trên thế giới, sau khi sáp nhập với Hãng Luật Dacheng (Trung Quốc). Năm 2021, Dentons có: trên 12.000 Luật sư, hoạt động tại 77 quốc gia, có 190 văn phòng. Doanh thu khoảng 03 tỷ USD, Lợi nhuận trên mỗi Đối tác vốn chủ sở hữu là: trên 01 triệu USD. 

[2] Kirkland & Ellis (LLP): thành lập năm 1909. Kirkland & Ellis có trụ sở tại Chicago (Mỹ), là một Hãng Luật đa quốc gia, tổ chức theo loại hình: Công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn (LLP). Năm 2021, Kirkland & Ellis đạt doanh thu: trên 06 tỷ USD, với số lượng luật sư: 3.000, được công nhận là Hãng Luật lớn nhất thế giới tính theo doanh thu.

[3] Baker McKenzie (Verein): thành lập vào năm 1949, là một Hãng Luật đa quốc gia, có trụ sở tại Chicago (Mỹ). BakerMcKenzie hiện có 77 văn phòng tại 46 quốc gia, có khoảng 4.800 luật sư và khoảng 13.000 nhân viên. Năm 2021, Baker McKenzie đạt tổng doanh thu: 3,1 tỷ USD, đứng thứ 4 trên bảng xếp hạng Am Law 200 năm 2022 của The American Lawyer .

3- Hãng Luật đa quốc gia

Hãng Luật hoạt động ở nhiều quốc gia (Multinational law firm) thường có cấu trúc phức tạp, liên quan đến nhiều Quan hệ đối tác. Ví dụ: Năm 2000, Hãng Luật Baker McKenzie đã thiết lập các quan hệ đối tác quốc gia hoặc khu vực tạo thành một Hiệp hội (Verein). Các Luật sư đối tác sẽ chia sẻ: [1] thương hiệu, [2] chức năng hành chính, [3] chi phí hoạt động khác, nhưng vẫn duy trì các Nhóm doanh thu riêng biệt (thường là cấu trúc Thù lao đối tác riêng biệt).

Các Hãng Luật đa quốc gia khác hoạt động dưới hình thức Công ty hợp danh duy nhất trên toàn thế giới, chẳng hạn như Công ty Hợp danh trách nhiệm hữu hạn của Anh hoặc Mỹ, trong đó các Thành viên hợp danh cũng tham gia điều hành tại các Chi nhánh của Hãng Luật tại các quốc gia khác nhau theo yêu cầu của quy định của quốc gia đó. 

Tuy nhiên, một số quốc gia, vùng lãnh thổ như: Hồng Kông và Nhật Bản... có quy định hạn chế Quan hệ đối tác giữa Luật sư trong nước và Luật sư nước ngoài.

Xem thêm: Mạng lưới Công ty Luật (Law Firm Network)

IV- QUY MÔ CỦA CÁC HÃNG LUẬT

Các Hãng Luật nhỏ nhất là các Luật sư hành nghề đơn lẻ, chiếm đại đa số Luật sư ở các quốc gia. Các Hãng Luật nhỏ có xu hướng tập trung vào các chuyên ngành cụ thể, ví dụ: Luật lao động, Luật thuế, Luật hình sự, Luật sáng chế.

Các Hãng Luật lớn hơn có thể bao gồm một số nhóm hành nghề chuyên biệt, cho phép Hãng Luật đa dạng hóa cơ sở khách hàng và thị trường của mình, đồng thời cung cấp nhiều loại dịch vụ cho khách hàng của họ. Các Hãng Luật lớn thường có các Bộ phận Luật sư tranh tụng và Bộ phận giao dịch riêng biệt. Bộ phận giao dịch tư vấn cho khách hàng và xử lý công việc pháp lý giao dịch, như soạn thảo hợp đồng, xử lý các đơn và hồ sơ pháp lý cần thiết, đánh giá và đảm bảo tuân thủ luật pháp liên quan; trong khi bộ phận Luật sư tranh tụng đại diện cho khách hàng tại Tòa án và xử lý các vấn đề quan trọng (như nghiên cứu và kiến ​​nghị gửi Tòa án) trong suốt quá trình tố tụng.

1- Hãng Luật nhỏ (Boutique Law)

Các Luật sư ở các thành phố và thị trấn nhỏ có thể vẫn có các thông lệ chung kiểu cũ. Thế nhưng, hầu hết các Luật sư ở thành phố có xu hướng chuyên môn hóa cao do sự phức tạp, đa dạng của pháp luật ngày nay. Một số Hãng Luật nhỏ ở thành phố chỉ chuyên hành nghề một loại Luật (như: việc làm, chống độc quyền, sở hữu trí tuệ, quỹ đầu tư, viễn thông hoặc hàng không) và được gọi là Hãng Luật nhỏ (Boutique Law).

2- Hãng Luật ảo (Virtual Law)

Hãng Luật ảo (Virtual Law Firms) xuất hiện là một bước phát triển của Ngành Luật trong Thế kỷ 21. Đó là, một Hãng Luật có địa chỉ kinh doanh ảo nhưng không có văn phòng chính thức mở cửa đón tiếp khách hàng. Các Hãng Luật này sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để hoạt động từ các địa điểm xa xôi, nhưng cung cấp dịch vụ của mình cho khách hàng thậm chí vượt ra ngoài phạm vi quốc gia, chi phí để duy trì cơ sở vật chất do đó hơn so với các Hãng Luật truyền thống. Cấu trúc chi phí thấp hơn này cho phép các Hãng Luật ảo lập hóa đơn cho khách hàng trên cơ sở dự phòng thay vì theo số giờ có thể lập hóa đơn do người trả trước trả trước.

Những đổi mới liên quan bao gồm: Nhà cung cấp Dịch vụ pháp lý thay thế (Alternative Legal Services Provider, ALSP), Gia công pháp lý (Legal Outsourcing) và đôi khi được gọi là Luật mới (New Law).

Các Hãng Luật lớn nhất có hơn 1.000 Luật sư. Các Hãng Luật này, thường được gọi là: Siêu Hãng (Mega Firms) hoặc Luật lớn (Big Law), thường có văn phòng ở một số châu lục, với mức phí 750 USD  (đô là Mỹ) mỗi giờ hoặc cao hơn và có tỷ lệ nhân viên hỗ trợ trên mỗi Luật sư cao. Do tính chất địa phương và khu vực, quy mô tương đối của một Hãng Luật này khác nhau.

3- Luật mới (NewLaw)

Luật Mới (New Law) được nhà tư vấn Eric Chin nghĩ ra như một thuật ngữ vào năm 2013. NewLaw đã được định nghĩa là: “bất kỳ mô hình, quy trình hoặc công cụ nào thể hiện một cách tiếp cận khác biệt đáng kể đối với việc tạo ra hoặc cung cấp các dịch vụ pháp lý so với những gì mà Nghề Luật truyền thống đã sử dụng”.

Ví dụ: các mô hình ALSP của New Law có thể bao gồm các Công ty biệt phái (Secondment Firms), Công ty tư vấn luật và kinh doanh (Law and Business advice companies), mô hình Pháp lý trực tuyến ảo (Virtual online Legal models), Hãng Luật Sáng tạo (Innovative law firms).

4- Các Hãng Luật đa dịch vụ

Các Hãng Luật lớn nhất thích tự gọi mình là các "Big Law" vì họ có các bộ phận chuyên về từng loại công việc pháp lý, mà ở Mỹ thường có nghĩa là các giao dịch Mua lại và Sáp nhập (M&A), Ngân hàng và một số loại tranh chấp doanh nghiệp có rủi ro cao. Các Big Law này hiếm khi làm các vụ việc hình sự.

Tuy nhiên, các Hãng Luật lớn nhất sẽ không lớn lắm nếu so về doanh thu hay số lượng nhân sự với các Tập đoàn (Công ty cố phần) khác hoặc thậm chí là các Công ty dịch vụ chuyên nghiệp khác. Ví dụ: số liệu năm 2021, Kirkland & Ellis (Mỹ) đứng đầu các Hãng Luật về doanh thu 6,04 tỷ USD, có 2.725 Luật sư và 5.721 nhân viên; Dentons (Trung Quốc) đứng đầu Hãng Luật về số Luật sư 12.064, có doanh thu 2,94 tỷ USD. Trong khi đó, số liệu năm 2021, Walmart (bán lẻ, Mỹ) có doanh thu 559,2 tỷ USD, 2,3 triệu nhân viên; hoặc số liệu năm 2022, của  Deloitte (dịch vụ kiểm toán đa quốc gia, Mỹ) có doanh thu 59.3 tỷ USD, 415,000 người nhân viên.

5- Xu hướng toàn cầu hóa

Các Hãng Luật lớn nhất, được gọi là Big Law, trên thế giới có trụ sở chủ yếu tại Vương quốc Anh và Mỹ. Tuy nhiên, các Hãng Luật lớn với hơn 1.000 Luật sư cũng đã xuất hiện Úc (Minter Ellison, 1.500 Luật sư), Trung Quốc (King & Wood Mallesons 2.600 Luật sư), Tây Ban Nha (Garrigues, 2.100 Luật sư).

Hệ thống Luật sư cấp phép của Mỹ trên cơ sở từng Bang, truyền thống có trụ sở tại một Bang duy nhất của Mỹ và tập trung chặt chẽ vào lợi nhuận trên mỗi Đối tác (trái ngược với quy mô tuyệt đối) cho đến nay đã hạn chế quy mô của hầu hết Hãng Luật của Mỹ. Do đó, trong khi các Hãng Luật có lợi nhuận cao nhất trên thế giới vẫn ở New York, bốn (04) trong số sáu (06) Hãng Luật lớn nhất trên thế giới có trụ sở tại London (Vương quốc Anh).

Nhưng quy mô khổng lồ của Mỹ dẫn đến số lượng các Hãng Luật lớn nói chung lớn hơn. Một bài báo năm 2003 công bố số liệu, chỉ riêng Mỹ đã có 901 Hãng Luật với hơn 50 Luật sư, trong khi chỉ có 58 Hãng Luật như vậy ở Canada, 44 ở Greater. Anh, 14 ở Pháp và ở Đức Ngày càng có xu hướng Toàn cầu hóa (Worldwide) các Hãng Luật.

Do quy mô, các Hãng Luật có trụ sở tại Mỹ và Vương quốc Anh là những Hãng Luật có uy tín và quyền lực nhất trên thế giới và họ có xu hướng thống trị thị trường quốc tế về các dịch vụ pháp lý. Một bài báo nghiên cứu năm 2007 lưu ý rằng, các Hãng Luật từ các quốc gia khác chỉ "nhặt nhạnh" phần còn lại của họ: "Mức cạnh tranh tương đối có trật tự, theo đó chủ yếu là các Hãng Luật của Úc, New Zealand và Canada cạnh tranh để kinh doanh mà các Hãng Luật của Anh hoặc Mỹ không yêu cầu".

Xem thêm: Quan hệ Đối tác chiến lược (Strategic Partnership)

IV- THU NHẬP CỦA LUẬT SƯ

Cơ cấu tiền lương của Hãng Luật thường phụ thuộc vào quy mô Hãng Luật này. Mức lương của các Hãng Luật nhỏ rất khác nhau giữa các quốc gia và từ quốc gia này sang quốc gia khác, và thường không được công bố rộng rãi. Bởi vì, hầu hết các quốc gia không có Nghề Luật thống nhất, nên thường có sự chênh lệch đáng kể về thu nhập giữa các Nghề Luật khác nhau trong một quốc gia cụ thể. Cuối cùng, sự sẵn có của dữ liệu tiền lương cũng phụ thuộc vào sự tồn tại của các nhà báo và nhà xã hội học có thể thu thập và phân tích dữ liệu đó.

1- Thu nhập của Luật sư tại Mỹ

Mỹ hiện là quốc gia duy nhất có đủ Luật sư, cũng như các nhà báo và nhà xã hội học chuyên nghiên cứu về họ, để có dữ liệu phổ biến rộng rãi về cơ cấu tiền lương tại các Hãng Luật lớn.

Năm 2006, mức lương trung bình của sinh viên mới tốt nghiệp trường Luật dao động từ 50.000 USD mỗi năm ở các Hãng Luật nhỏ (02 đến 10 Luật sư) đến 160.000 USD mỗi năm ở các Hãng Luật rất lớn (hơn 500 Luật sư). Việc phân phối các khoản lương này rất đa dạng, với phần lớn các Luật sư mới kiếm được ở mức cao hoặc mức thấp của thang đo, và mức lương trung bình là 62.000 USD.

Vào năm 2016, Hãng Luật Cravath, Swaine & Moore (New York) đã tăng mức lương Luật sư Cộng sự năm đầu tiên lên 180.000 USD. Nhiều Hãng Luật cao cấp khác có trụ sở tại New York đã sớm thực hiện theo. Hai năm sau, vào năm 2018, Hãng Luật New York Milbank đã tăng mức lương Luật sư cộng sự năm đầu tiên lên 190.000 USD. Vào năm 2022, Milbank đã tăng mức bù đắp (lương) năm đầu tiên lên 215.000 USD. Hầu hết các Hãng Luật có quy mô tương đương đều làm theo.

Mô hình tiền lương truyền thống dành cho các Cộng sự của Hãng Luật là bù đắp từng bước, trong đó lương của Luật sư cộng sự tăng lên một lượng cố định mỗi năm kể từ khi tốt nghiệp Trường Luật của Luật sư cộng sự. Tuy nhiên, nhiều Hãng Luật đã chuyển sang hệ thống bù đắp dựa trên cấp độ, trong đó các Luật sư cộng sự được chia thành ba (03) hoặc đôi khi là bốn (04) cấp độ dựa trên các kỹ năng của Luật sư.

Trong năm 2013, mức lương trung bình cho ba (03) cấp Luật sư cộng sự là 152,500 USD, 185,000 USD và 216,000 USD đối với các Hãng Luật lớn (hơn 700 Luật sư) và 122,000 USD, 143,500 USD và  160,000 USD đối với tất cả các Hãng Luật.

Một số Hãng Luật nổi tiếng, như Goodwin Procter và Paul Hastings, thưởng hào phóng khi ký hợp đồng, ví dụ: 20 nghìn USD cho các cộng sự mới vào năm nhất có bằng JD/MBA.

Một cách khác để các Luật sư cộng sự của Hãng Luật tăng thu nhập hoặc cải thiện điều kiện làm việc của họ là thông qua việc chuyển sang một Hãng Luật khác. Một cuộc khảo sát năm 2014 của Lexis Nexis chỉ ra rằng, hơn 95% Hãng Luật được tư vấn có ý định thuê Luật sư bên trong vòng 02 năm tới. Mặc dù sự thành công của cả Luật sư và Hãng Luật trong việc tuyển dụng bên đã bị nghi ngờ. Tạp chí Luật Quốc gia đã báo cáo rằng chi phí tuyển dụng, bù đắp và tích hợp Luật sư bên cạnh có thể lên tới 600.000 USD và 60% số người thuê Luật sư bên cạnh không thành công tại các Hãng Luật mới của họ.

2- Thu nhập của Luật sư tại Anh

Các Hãng Luật của Anh thường thực hiện bù đắp theo từng bước. Ở Luân Đôn, mức lương của Luật sư mới bắt đầu (NQ - Mới đủ tiêu chuẩn) thường là: [1] 40.000-70.000 £ (Bảng Anh, 01 £ tương đương 1,25 USD) tại các Hãng Luật nhỏ, [2] 80.000 - 100.000 £ tại các Hãng Luật cỡ vừa, [3] 120.000 - 155.000 £ tại Hãng Luật có văn phòng tại London.

Một cộng tác viên cấp cao với sáu (06) năm kinh nghiệm có thể kiếm được 68.000-120.000 (£) tại một Hãng Luật quốc gia hoặc lên tới 160.000 (£) tại một Hãng Luật đa quốc gia. Mức lương Luật sư có văn phòng bên ngoài London thường có mức lương thấp hơn.

3- Thu nhập của Luật sư tại Úc

Úc có sự khác biệt về lương Luật sư theo vùng, với mức lương cao nhất ở Sydney, tiếp theo là Melbourne, Perth, Brisbane, sau đó là Adelaide. Mức lương khác nhau giữa các Hãng Luật hàng đầu, cỡ trung bình và nhỏ. Tại các Hãng Luật hàng đầu ở Sydney, lương của các Luật sư được nhận vào hành nghề dao động từ: 75.000 đến 92.000 USD và các cộng sự kiếm được trung bình: 1.215.000 USD.

Tại Sydney, mức lương khởi điểm trung cấp cho Luật sư được nhận vào dao động từ 65.000 đến 82.000 USD. Hầu hết các Luật sư Úc không được nhận cho đến khi họ làm việc được mười (10) tháng tại Hãng Luật của họ, vì giai đoạn đầu bao gồm đào tạo pháp lý có giám sát trước khi được nhận.

Thông thường, ở các Hãng Luật của Úc, các Luật sư được áp dụng hệ thống khóa trong hai năm đầu tiên hành nghề, sau đó việc tăng lương phụ thuộc vào hiệu suất được đánh giá, phần lớn, thông qua việc đáp ứng các mục tiêu về số giờ có thể lập hóa đơn.

4- Thu nhập của Luật sư Hồng Kông

Các Cộng sự mới đủ điều kiện tại các Hãng Luật hàng đầu ở Hồng Kông thường kiếm được từ 840.000 đến 948.000 HKD (đô la Hồng Kông, 01 HKD - 0,128 USD), với các Đối tác trong khoảng từ 1,6 triệu đến 04 triệu HKD.

5- Thu nhập của Luật sư Singapore

Tại các Hãng Luật ở Singapore, các Cộng sự trong ba (03) năm hành nghề đầu tiên thường kiếm được 60.000 đến 100.000 USD, trong khi các Cộng sự cấp trung (04 đến 07 năm) kiếm được 110.000 đến 180.000 USD hàng năm và các Cộng sự cấp cao (08 năm trở lên) kiếm được tối thiểu 160.000 USD hàng năm. Các Hãng Luật quốc tế trả nhiều tiền hơn đáng kể, với các Cộng sự cấp cao thường kiếm được tối thiểu 250.000 USD hàng năm.

6- Thu nhập của Luật sư Ấn Độ

Có thêm thông tin có sẵn cho các cộng sự cấp nhập cảnh. Các Luật sư trong năm đầu tiên được trả từ 80.000 đến 110.000 INR (Rupee Ấn độ, 01 INR = 0.012 USD) mỗi tháng. Mức tốt nhất là khoảng 1.500.000 INR hàng năm. Có sự khác biệt lớn về mức lương tùy thuộc vào Hãng Luật, thành phố và trường đại học của ứng viên. Các thành phố như Mumbai và Delhi, mức lương Luật sư cao hơn so với các thành phố khác như Kolkata, Benaras, Pune, Ahmedabad.

Xem thêm: Thu nhập của các Đối tác

 

V- VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA CÁC HÃNG LUẬT

Hầu hết các Hãng Luật đều nằm trong các Tòa nhà Văn phòng Luật với nhiều quy mô khác nhau, từ những tòa nhà một tầng khiêm tốn đến một số tòa nhà chọc trời cao nhất thế giới. Ví dụ: năm 2004 Paul Hastings mới là Hãng Luật đầu tiên ghi tên mình trên tòa nhà chọc trời.

Vào cuối năm 2001, John C. Dearie (Hãng Luật chuyên về hình sự, trụ sở tại Bang New York) thử nghiệm các Văn phòng Luật di động có kích thước bằng xe buýt. Hãng Luật này tuyên bố rằng, một Văn phòng Luật sư trên bánh xe thuận tiện hơn cho các nguyên đơn thương tích cá nhân, những người thường đang hồi phục sau những vết thương nặng và do đó khó đi xa nhà để phỏng vấn đầu vào.

VI- BẢNG XẾP HẠNG CÁC HÃNG LUẬT

Các Hãng Luật được xếp hạng một cách khách quan, chẳng hạn như theo doanh thu, lợi nhuận trên mỗi Đối tác và theo chủ quan, bởi các nhà xuất bản và nhà báo pháp lý khác nhau. Việc xếp hạng các Hãng Luật hướng tới các Luật sư hoặc Sinh viên Luật, cũng đánh giá dựa trên tiêu chí khác như chất lượng cuộc sống, giờ làm việc, mức độ thân thiện với gia đình và tiền lương. Cuối cùng, xếp hạng thống kê thường bao gồm các dữ liệu liên quan đến lợi nhuận như lợi nhuận trên mỗi Đối tác và doanh thu trên mỗi Luật sư. ​

Các dịch vụ xếp hạng Luật sư bên thứ ba như Chambers and Partners và Martindale-Hubbell thường rất cạnh tranh và có thể giúp nâng cao hồ sơ chuyên nghiệp của từng Luật sư. Để nắm bắt được lợi thế tiếp thị này, hơn 1.200 xếp hạng Luật sư và hoặc giải thưởng đã xuất hiện ở Mỹ tôn vinh các giải thưởng và đã xác định rằng, các Luật sư có thể đề cập đến những vinh dự đó trong quảng cáo “chỉ khi cơ sở so sánh có thể được xác minh” và tổ chức cung cấp giải thưởng “đã tiến hành điều tra đầy đủ về tính phù hợp của cá nhân Luật sư”.

Trong một cuộc họp báo tháng 10 năm 2007 được báo cáo trên tờ The Wall Street Journal và The New York Times, nhóm Sinh viên Luật Xây dựng Nghề Luật tốt hơn đã công bố bảng xếp hạng hàng năm đầu tiên về các Hãng Luật hàng đầu theo số giờ trung bình có thể thanh toán, sự tham gia chuyên nghiệp và sự đa dạng về nhân khẩu học.

Đáng chú ý nhất, báo cáo đã xếp hạng tỷ lệ phần trăm phụ nữ, người Mỹ gốc Phi, người gốc Tây Ban Nha, người Mỹ gốc Á và người đồng tính nam & đồng tính nữ tại các Hãng Luật hàng đầu của Mỹ. Nhóm đã gửi thông tin đến các Trường Luật hàng đầu trên toàn quốc, khuyến khích sinh viên tính đến dữ liệu nhân khẩu học này khi chọn nơi làm việc sau khi tốt nghiệp.

Khi nhiều sinh viên chọn nơi làm việc dựa trên bảng xếp hạng đa dạng của các Hãng Luật, các Hãng Luật phải đối mặt với áp lực thị trường ngày càng tăng để thu hút những tân binh hàng đầu.

Xem thêm: Liên minh chiến lược (Strategic Alliance)

Luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc điều hành của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp.

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
4.1 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Hãng Luật (Law Firm)

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
3.05089 sec| 1244.164 kb