Hợp đồng ủy quyền - Uỷ quyền cho người thứ ba

27/03/2023
Lê Thị Linh Chi
Lê Thị Linh Chi
Trong thực tế không phải bao giờ cá nhân hoặc pháp nhân cũng có thể trực tiếp tham gia vào quan hệ hợp đồng. Việc không tham gia trực tiếp có thể do nhiều lý do khác nhau hoặc khi đã tham gia vào một quan hệ hợp đồng nhất định nhưng không có điều kiện thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Vì vậy, pháp luật cho phép họ có thể ủy quyền cho người thứ ba, thay mặt mình giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.

I- Uỷ quyền lại theo quy định của pháp luật 

Mục đích của việc ủy quyền là giúp, thay mặt người ủy quyền thực hiện hành vi vì lợi ích của người ủy quyền. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà bên được ủy quyền không thể thực hiện được công việc đã được giao phó. Trong trường hợp đó, pháp luật cho phép bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác. Uỷ quyền tiếp cho người khác được hiểu là việc bên được ủy quyền thực hiện việc ủy quyền cho người thứ ba thay mặt mình thực hiện công việc đã được ủy quyền.

Để thực hiện ủy quyền tiếp cho người khác thực hiện công việc, các bên trong quan hệ ủy quyền lại cần phải đảm bảo các điều kiện theo quy định tại Điều 564 Bộ luật Dân sự 2015 như sau, :

- Việc ủy quyền lại phải được sự đồng ý của người ủy quyền: Đây là các trường hợp có thể vì lý do chủ quan mà bên được ủy quyền không thể thực hiện các công việc được bên ủy quyền giao phó, nhưng bên ủy quyền cũng không có điều kiện để ủy quyền cho người khác. Với trách nhiệm của mình, bên được ủy quyền giúp bên ủy quyền chọn một người khác đáng tin cậy để ủy quyền lại và được bên ủy quyền đồng ý.

- Vì sự kiện bất khả kháng, nếu không áp dụng việc ủy quyền lại cho người khác thực hiện thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được.  Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng thông thường bên được ủy quyền sẽ khó có thể thực hiện được công việc của mình, trong trường hợp này bên được ủy quyền miễn trách nhiệm dân sự. Do đó, để đảm bảo lợi ích của bên có quyền bên được ủy quyền có thể ủy quyền lại cho người khác.

- Phạm vi ủy quyền lại không vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu. 

- Hình thức ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu. Do pháp luật không quy định về hình thức của việc đồng ý cho phép ủy quyền tiếp, từ đó nên việc không đồng ý cho ủy quyền có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào như văn bản hay lời nói.

II- Hình thức và đặc điểm của hợp đồng ủy quyền lại

1- Hình thức ủy quyền lại

Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, ủy quyền tiếp cho người khác có thể thực hiện thông qua hợp đồng ủy quyền lại. Trong nội dung hợp đồng ủy quyền lại sẽ bao gồm sự thỏa thuận giữa các bên. Cụ thể, bên được ủy quyền lại có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền ban đầu, còn bên ủy quyền lại  phải trả thù lao, trong trường hợp thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Các bên trong quan hệ ủy quyền lại có thể thỏa thuận hình thức ủy quyền cho bên thứ ba tiếp tục thực hiện công việc nhưng phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền lại cho người thứ ba phải được lập bằng văn bản.

Việc phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu nghĩa được hiểu như sau:

- Khi hợp đồng ủy quyền ban đầu được lập thành văn bản thì hợp đồng ủy quyền lại cũng phải tuân thủ hình thức này là được lập thành văn bản giữa bên được ủy quyền và bên được ủy quyền lại.

- Nếu hợp đồng ủy quyền ban đầu theo quy định của pháp luật hoặc sự thỏa thuận giữa các bên được thể hiện dưới hình thức hợp đồng có công chứng thì hợp đồng ủy quyền lại cũng phải lập thành văn bản có công chứng như hợp đồng ủy quyền ban đầu.

Về mặt nội dung ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền lại cũng không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu. Nếu hợp đồng ủy quyền lại vượt quá phạm vi ủy quyền so với  hợp đồng ủy quyền ban đầu thì phần vượt quá sẽ bị tuyên bố vô hiệu theo Điều 407 Bộ luật Dân sự 2015.

Trong trường hợp xảy ra thiệt hại do bên ủy quyền lại gây ra làm cho bên được ủy quyền lại vượt quá phạm vi thẩm quyền ủy quyền ban đầu thì bên ủy quyền lại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Còn trong trường hợp bên ủy quyền lại và bên được ủy quyền lại cố tình gây thiệt hại cho bên ủy quyền thì sẽ liên đới chịu trách nhiệm bồi thường.

Hiện nay, còn một hình thức khác để thực hiện việc ủy quyền tiếp cho người khác là hình thức giấy ủy quyền. Pháp luật hiện nay không quy định cụ thể về hình thức, nội dung của giấy ủy quyền lại do cá nhân lập, nhưng vẫn thừa nhận hình thức ủy quyền này thông qua việc quy định trình tự, thủ tục chứng thực Giấy ủy quyền được quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015.

Đối với hình thức ủy quyền lại bằng Giấy ủy quyền thì hiện tại pháp luật đã giới hạn phạm vi, nội dung ủy quyền là không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường và chỉ giới hạn một số công việc đơn giản nhất định.

Vì đối tượng của ủy quyền cho người thứ ba là những hành vi pháp lý, cho nên những hành vi này phải không bị pháp luật cấm và không trái với đạo đức xã hội. Hình thức ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu và không vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.

Hình thức ủy quyền cho người thứ ba do các bên thỏa thuận bởi biên bản thỏa thuận 3 bên, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền cho người thứ ba phải được lập bằng văn bản. Chủ thể của hợp đồng ủy quyền cho người thứ ba là người thứ hai và được người thứ nhất đồng ý, họ có thể là cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền, còn bên kia là người được ủy quyền lại cũng có thể là cá nhân, hoặc pháp nhân.

2- Đặc điểm của hợp đồng ủy quyền lại

Ủy quyền lại trong quan hệ dân sự thường mang tính chất tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong lúc cần thiết, những quan hệ đó thường không mang tính chất đền bù. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều quan hệ ủy quyền lại mang tính chất đền bù, có nghĩa là bên được ủy quyền lại sau khi hoàn thành một công việc do bên được ủy quyền ban đầu giao lại cho, sẽ được nhận một khoản thù lao như thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền lại hoặc do pháp luật quy định.

III- Chủ thể của hợp đồng ủy quyền lại

Chủ thể của hợp đồng ủy quyền cho người thứ ba là người thứ hai và được người thứ nhất đồng ý, họ có thể là cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền, còn bên kia là người được ủy quyền lại cũng có thể là cá nhân, hoặc pháp nhân.

Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi cũng có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực hiện. Nghĩa vụ và quyền hạn của các bên trong hợp đồng ủy quyền cho người thứ ba được thực hiện theo quy định theo Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

IV- Sự khác nhau giữa ủy quyền lại trong dân sự với ủy quyền lại trong quản lý nhà nước

Uỷ quyền lại trong dân sự được hình thành và thực hiện thông qua hợp đồng, và không gắn với quyền lực nhà nước. Người có quyền và nghĩa vụ dân sự có thể ủy quyền cho bất kỳ ai để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà không phụ thuộc vào mối quan hệ công việc. Người được ủy quyền có thể nhận hoặc từ chối từ việc ủy quyền đó hoặc được quyền nhận từ người ủy quyền một khoản lợi ích gọi là thù lao từ việc thực hiện công việc được ủy quyền.

Còn ủy quyền trong quản lý nhà nước không phải thực hiện trên cơ sở hợp đồng dân sự mà thông qua hành vi của người có quyền, đó có thể là quyết định, quy chế, điều lệ… Người có quyền chỉ được ủy quyền cho một số đối tượng nhất định theo quy định của pháp luật, có thể là những tổ chức, cá nhân cấp dưới của mình thực hiện những công việc nhất định trong quản lý nhà nước.

V- Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ủy quyền lại

1- Quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền lại

Khi ký kết hợp đồng ủy quyền lại cho người thứ ba, bên được ủy quyền lại sẽ có nghĩa vụ thực hiện công việc theo ủy quyền và phải báo cho bên ủy quyền lại về việc thực hiện công việc đó.

Người được ủy quyền lại chỉ được thực hiện những hành vi trong phạm vi ủy quyền đã được ghi trong hợp đồng ủy quyền lại phù hợp với phạm vi trong hợp đồng ủy quyền ban đầu giữa bên ủy quyền và bên ủy quyền lại.

Bản chất của việc ủy quyền lại là thay người được ủy quyền thực hiện các công việc cho bên ủy quyền. Do vậy, quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền lại phụ thuộc vào các bên thỏa thuận, nhưng về cơ bản bên nhận ủy quyền lại sẽ kế thừa phần lớn các quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền quy định tại điều 565, 566 BLDS.

- Nghĩa vụ của bên được ủy quyền lại như sau:

  • Thực hiện công việc được ủy quyền lại và báo cho bên được ủy quyền về việc thực hiện công việc đó.

  • Báo cho người có liên quan trong công việc phải thực hiện ủy quyền về thời hạn, phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền.

  • Bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc ủy quyền lại.

  • Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền lại.

  • Giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc ủy quyền lại theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

  • Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ quy định.

- Quyền của bên được ủy quyền lại được quy định như sau:

  • Yêu cầu bên ủy quyền lại cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để thực hiện công việc ủy quyền.

  • Được thanh toán chi phí hợp lý mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc ủy quyền lại.

  • Hưởng thù lao, nếu các bên có thỏa thuận.

2- Quyền và nghĩa vụ của bên ủy quyền lại

- Người được ủy quyền có thể ủy quyền lại cho người được ủy quyền lại toàn bộ hay một phần hành vi cần thiết để thực hiện những giao dịch dân sự. Khi này, bên ủy quyền lại có những nghĩa vụ như sau:

  • Cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện đã nhận từ bên ủy quyền cho bên được ủy quyền lại thực hiện hành vi pháp lý đã được ủy quyền.

  • Chịu trách nhiệm về cam kết do bên được ủy quyền lại thực hiện trong phạm vi đã ủy quyền với bên ủy quyền.

  • Thanh toán chi phí hợp lý mà bên được ủy quyền lại đã bỏ ra để thực hiện công việc được ủy quyền.

  • Trả thù lao cho bên được ủy quyền lại, nếu có thỏa thuận về việc trả thù lao.

- Quyền của bên ủy quyền lại bao gồm các điều cơ bản sau:

  • Yêu cầu bên được ủy quyền lại thông báo đầy đủ về việc thực hiện công việc ủy quyền.

  • Yêu cầu bên được ủy quyền lại giao lại tài sản, lợi ích thu được từ việc thực hiện công việc ủy quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

VI- Những lưu ý khi ủy quyền cho người thứ ba

Theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 564 Bộ luật dân sự 2015: Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu, hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu.

Bản chất của việc ủy quyền lại là tìm người thay thế bên được ủy quyền ban đầu xác lập và thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của bên ủy quyền. Vì vậy, tất cả các vấn đề liên quan đến cách thức thực hiện, phạm vi ủy quyền trong việc ủy quyền lại được xác định tương ứng với phạm vi trong hợp đồng ủy quyền đầu tiên. Bên ủy quyền lại chỉ được thực hiện các công việc trong phạm vi ủy quyền ban đầu.

Pháp luật quy định hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải thống nhất với hình thức của hợp đồng ủy quyền ban đầu. Quy định này nhằm kiểm soát chặt chẽ hoạt động ủy quyền lại. Ví dụ hợp đồng ủy quyền được công chứng thì hợp đồng ủy quyền lại cũng phải được công chứng theo quy định của pháp luật.

Do vậy, khi ủy quyền lại cần lưu ý đến phạm vi ủy quyền và hình thức ủy quyền.

0 bình luận, đánh giá về Hợp đồng ủy quyền - Uỷ quyền cho người thứ ba

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
1.20521 sec| 998.906 kb