Pháp luật về hội nhập kinh tế ASEAN

06/03/2023
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (‘ASEAN’) do năm thành viên sáng lập là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xinh-ga-po và Thái Lan thành lập vào ngày 8/8/1967 ở Băng Cốc, Thái Lan. Bru-nây tham gia ASEAN ngày 7/1/1984, Việt Nam tham gia ngày 28/7/1995, Lào và Mi-an-ma tham gia ngày 23/7/1997, và Cam-pu-chia tham gia ngày 30/4/1999. Văn bản thành lập tổ chức này là Tuyên bố Băng Cốc, nêu rõ một trong các mục tiêu chính của ASEAN là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khu vực.

Các nước thành viên ASEAN đã kí kết nhiều hiệp định để đáp ứng nhu cầu hội nhập khu vực ngày càng tăng. Hoạt động kí kết các điều ước trong lĩnh vực này diễn ra rất sôi động trong những năm gần đây, vì ASEAN quyết tâm nâng cao tính cạnh tranh của khu vực. Tuyên bố hoà hợp Ba-li năm 2003 nói rõ việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ là mục tiêu của hoạt động hội nhập kinh tế tới năm 2020. Tuyên bố này nêu:

Trong quá trình hướng tới Cộng đồng kinh tế ASEAN, ASEAN sẽ thiết lập các cơ chế và đưa ra các biện pháp mới để tăng cường việc thực thi các sáng kiến kinh tế hiện tại, trong đó có Khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA), Hiệp định khung về dịch vụ (AFAS) và Khu vực đầu tư ASEAN (AIA).

Hơn nữa, Hiến chương ASEAN được thông qua năm 2007, đã quy định rõ ràng tư cách pháp lí và một cơ cấu phức tạp hơn cho tổ chức này, tạo ra cơ sở để tiến hành các nỗ lực hội nhập tích cực nhằm xây dựng các cộng đồng an ninh, kinh tế, xã hội và văn hoá. Phần này sẽ xem xét các quy định hiện hành của ASEAN điều chỉnh hội nhập thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và đầu tư trong Hiệp hội và giữa Hiệp hội với các nước bên ngoài.

1- Hội nhập kinh tế trong ASEAN

1.1- Các quy định về thương mại hàng hoá

Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của Khu vực thương mại tự do ASEAN (‘CEPT’)

Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư của ASEAN, vào ngày 28/1/1992, các nước thành viên ASEAN thông qua Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế để xây dựng khung pháp lí cho hội nhập kinh tế trong thương mại, công nghiệp, khoáng sản, năng lượng, tài chính, ngân hàng, thực phẩm, nông nghiệp, lâm nghiệp, vận tải và truyền thông. Trong khi các lĩnh vực hợp tác khác chỉ có một số cam kết mang tính khuyến khích thực hiện để thúc đẩy hội nhập, thì phần về thương mại hàng hoá của Hiệp định này nêu ra các quy định chi tiết bằng việc dẫn chiếu tới Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của Khu vực thương mại tự do ASEAN (‘CEPT’) cũng được thông qua cùng ngày. CEPT là cơ chế chính để thực hiện AFTA, theo đó các nước ASEAN cam kết giảm thuế quan, loại bỏ các biện pháp hạn chế số lượng và các rào cản phi thuế quan khác. Cơ chế này áp dụng đối với mọi sản phẩm chế tạo và sản phẩm nông nghiệp liệt kê trong bốn danh sách khác nhau trong các biểu cam kết của từng nước ASEAN.

Thứ nhất, Danh mục giảm thuế (viết tắt là ‘IL’) bao gồm những sản phẩm mà các nước ASEAN đã sẵn sàng cam kết giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp hạn chế số lượng và các rào cản phi thuế quan khác. Lộ trình cam kết hoàn thành của các nước ASEAN-6 (Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xinh-ga-po và Thái Lan) trong danh sách của mỗi nước là không muộn hơn ngày 1/1/2010, trong khi hạn hoàn thành của các nước CLMV (Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam) là không muộn hơn ngày 1/1/2015. Tuy nhiên, các nước thành viên có thể liệt kê số lượng nhất định các sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời (viết tắt là ‘TEL’) để tự do hoá thương mại đối với các sản phẩm này theo lộ trình chậm hơn và dần dần đưa chúng vào Danh mục IL.

Thứ hai, Nghị định thư của ASEAN về thực thi Danh mục TEL, kí kết ngày 23/11/2000, cho phép ‘một nước thành viên tạm thời trì hoãn việc chuyển một sản phẩm từ Danh mục TEL của mình sang Danh mục IL’, hoặc ‘tạm thời ngừng các nhượng bộ của mình đối một sản phẩm đã được đưa sang Danh mục IL’. Nghị định thư này chỉ áp dụng đối với các sản phẩm chế tạo trong Danh mục TEL từ ngày 31/12/1999, hoặc ngày tương ứng đối với Cam- pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam.  Để viện dẫn các quy định của Nghị định thư này, một nước ASEAN sẽ phải nộp đơn cho Hội đồng khu vực thương mại tự do ASEAN (Hội đồng AFTA), nêu ra thời gian yêu cầu được hoãn hay tạm thời ngừng nhượng bộ thương mại, lí do của yêu cầu đó và vấn đề thực sự đang gặp phải. 

Thứ ba, Danh mục nhạy cảm và nhạy cảm cao (viết tắt là ‘SL’). Ngày 30/9/1999, các nước ASEAN đã kí Nghị định thư về các thoả thuận đặc biệt về những sản phẩm nhạy cảm và nhạy cảm cao. Theo đó, các nước ASEAN- 6 phải bắt đầu loại bỏ dần các sản phẩm nhạy cảm theo cơ chế CEPT từ ngày 1/1/2001 với sự linh hoạt nhất định, nhưng không được muộn hơn ngày 1/1/2003 và sẽ hoàn thành quá trình này vào ngày 1/1/2010.  Đối với Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam, lộ trình được điều chỉnh theo ngày gia nhập ASEAN của họ. 

Cuối cùng, các nước thành viên ASEAN được phép loại trừ vĩnh viễn một số sản phẩm khỏi quá trình tự do hoá bằng cách liệt kê chúng trong Danh sách ngoại lệ chung (viết tắt là ‘GEL’) nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ của con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử và khảo cổ học. 
Từ ngày 1/1/2010, các nước ASEAN-6 đã loại bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,65% dòng thuế quan, trong khi đó các nước CLMV đã giảm được 98,86% dòng thuế quan của họ xuống còn 0-5%. 

Bên cạnh giảm thuế quan, các nước ASEAN còn kí kết các hiệp định khác để loại bỏ các NTBs và biện pháp hạn chế số lượng, hài hoà hoá biểu thuế quan, xác định trị giá tính thuế hải quan và thủ tục hải quan, đồng thời xây dựng tiêu chuẩn chung về chứng nhận sản phẩm. Các điều ước này bao gồm Thoả thuận ưu đãi thương mại của ASEAN 1977, Hiệp định ASEAN về Hải quan 1997, Hiệp định khung của ASEAN về các thoả thuận công nhận lẫn nhau 1998, Hiệp định khung E-ASEAN 2000, Nghị định thư điều chỉnh việc thực thi hệ thống biểu thuế quan hài hoà hoá 2003, Hiệp định khung ASEAN về hội nhập các ngành ưu tiên 2004, Hiệp định thiết lập và thực thi cơ chế một cửa ASEAN 2005. Các hiệp định này góp phần thúc đẩy tự do dịch chuyển hàng hoá trong khu vực.

Hiệp định ASEAN về thương mại hàng hoá (‘ATIGA’)

Nhằm đạt được mục tiêu thiết lập một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất với sự tự do dịch chuyển hàng hoá trong Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015, các ngoại trưởng ASEAN đã nhất trí vào tháng 8/2007 về việc nâng cấp cơ chế CEPT-AFTA thành một văn kiện pháp lí toàn diện hơn. Hơn nữa, rất cần thiết phải có một điều ước mới của ASEAN để tăng cường năng lực cạnh tranh của ASEAN khi ASEAN tích cực tiến hành đàm phán các hiệp định thương mại hàng hoá (viết tắt là ‘TIGs’) với các nước đối tác của ASEAN như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và Niu Di- lân. Bởi vậy, dựa trên các hiệp định hiện hành của ASEAN như đã nêu ở phần trước, Hiệp định ASEAN về thương mại hàng hoá (viết tắt là ‘ATIGA’) đã được kí kết ngày 26/2/2009 và có hiệu lực ngày 17/5/2010.

Các điểm chính của Hiệp định này là:

- Hiệp định hợp nhất mọi sáng kiến, nghĩa vụ và cam kết hiện hành về thương mại hàng hoá trong nội khối ASEAN, bao gồm cả các quy định về thuế quan và NTBs, trong một văn kiện toàn diện duy nhất. Danh sách các hiệp định sẽ được thay thế bởi Hiệp định ATIGA, như Hiệp định CEPT và một số nghị định thư, đang được hoàn tất để đưa vào phần phụ lục của ATIGA.

- Phụ lục 2 của Hiệp định quy định lộ trình giảm thuế quan đầy đủ của mỗi thành viên và các mức thuế quan được áp dụng cho mỗi sản phẩm trong mỗi năm cho tới năm 2015. Hiệp định ATIGA đưa thêm một yếu tố mới so với cơ chế CEPT - một điều khoản về tạm thời sửa đổi và ngừng các nhượng bộ thương mại, trong đó quy định chi tiết hướng dẫn về việc bồi thường phát sinh từ bất kì biện pháp tăng thuế nhập khẩu nào trong các cam kết hiện tại (Điều 23).

- Hiệp định còn có các điều khoản đảm bảo hiện thực hoá dòng dịch chuyển hàng hoá tự do trong ASEAN như tự do hoá thuế quan (Chương 2), quy tắc xuất xứ (Chương 3), loại bỏ các NTBs (Chương 4), xúc tiến thương mại (Chương 5), hải quan (Chương 6), quy chuẩn, tiêu chuẩn kĩ thuật, các thủ tục đánh giá sự hoà hợp (Chương 7), các biện pháp vệ sinh dịch tễ (Chương 8) và các biện pháp khắc phục thương mại (Chương 9).

Hiệp định ATIGA với công thức ‘tất cả trong một’ nâng cao tính minh bạch và tính dễ dự đoán của khung pháp lí của ASEAN về thương mại hàng hoá. Điều ước này cũng sẽ thúc đẩy và tăng cường hơn nữa thương mại trong nội khối ASEAN. Hiệp định có ý nghĩa quan trọng cho việc gia tăng hội nhập kinh tế hướng tới thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2015.

1.2- Các quy định về thương mại dịch vụ

Các nước ASEAN kí kết Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (‘AFAS’) vào ngày 15/12/1995 nhằm thúc đẩy thương mại dịch vụ trong khu vực.

Các mục tiêu chính của AFAS là: 

- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ giữa các nước thành viên, nhằm nâng cao tính hiệu quả và cạnh tranh, đa dạng hoá năng lực sản xuất, cung ứng và phân phối dịch vụ của các nhà cung ứng dịch vụ trong và ngoài ASEAN;

- Loại bỏ đáng kể các hạn chế đối với thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên;

- Tự do hoá thương mại dịch vụ bằng cách mở rộng phạm vi và làm sâu sắc quá trình tự do hoá, vượt ra ngoài các cam kết mà các nước thành viên đã đưa ra trong khuôn khổ Hiệp định GATS, với mục đích thực hiện một khu vực thương mại tự do về dịch vụ.

Hiệp định AFAS đưa ra các hướng dẫn chung để các nước thành viên ASEAN dần dần cải thiện việc tiếp cận thị trường và đảm bảo áp dụng NT bình đẳng cho các nhà cung ứng dịch vụ trong các nước ASEAN ở cả bốn phương thức cung ứng dịch vụ: Phương thức 1 (cung ứng dịch vụ qua biên giới); phương thức 2 (tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài); phương thức 3 (hiện diện thương mại); phương thức 4 (hiện diện của thể nhân). Hơn nữa, Hiệp định AFAS cũng đặt ra các quy tắc về các khía cạnh liên quan của thương mại dịch vụ như công nhận lẫn nhau, giải quyết tranh chấp, thể chế, cũng như các lĩnh vực hợp tác khác về dịch vụ. Hiệp định AFAS hướng tới các cam kết cao hơn các cam kết của các nước thành viên trong GATS. Trong Hiệp định này, các nước ASEAN cam kết tự do hoá một số lượng đáng kể các ngành dịch vụ theo một lộ trình thích hợp. Kể từ năm 1996, ASEAN đã kí kết tám gói cam kết dịch vụ như sau:

- Nghị định thư thực thi Gói cam kết ban đầu trong khuôn khổ Hiệp định AFAS kí ngày 15/12/1997;

- Nghị định thư thực thi Gói cam kết thứ hai trong khuôn khổ Hiệp định AFAS kí ngày 16/12/1998;

- Nghị định thư thực thi Gói cam kết thứ ba trong khuôn khổ Hiệp định AFAS kí ngày 31/12/2001;

- Nghị định thư thực thi Gói cam kết thứ tư trong khuôn khổ Hiệp định AFAS kí ngày 3/9/2004;

- Nghị định thư thực thi Gói cam kết thứ năm trong khuôn khổ Hiệp định AFAS kí ngày 8/12/2006;

- Nghị định thư thực thi Gói cam kết thứ sáu trong khuôn khổ Hiệp định AFAS kí ngày 19/11/2007;

- Nghị định thư thực thi Gói cam kết thứ bảy trong khuôn khổ Hiệp định AFAS kí ngày 26/2/2009.

- Nghị định thư thực thi Gói cam kết thứ tám trong khuôn khổ Hiệp định AFAS kí ngày 28/10/2010.

Các cam kết này được đưa ra với rất nhiều ngành dịch vụ như các dịch vụ kinh doanh, các dịch vụ chuyên môn, xây dựng, phân phối, giáo dục, dịch vụ môi trường, y tế, vận tải biển, bưu chính viễn thông và du lịch. Có bốn gói cam kết về dịch vụ tài chính đã được các bộ trưởng tài chính ASEAN kí kết và sáu gói cam kết về vận tải hàng không do các bộ trưởng vận tải ASEAN kí kết.

1.3- Các quy định về đầu tư nước ngoài

Các văn bản pháp luật hiện hành của ASEAN điều chỉnh đầu tư nội khối 68 bao gồm:

- Hiệp định ASEAN về thúc đẩy và bảo hộ đầu tư (viết tắt là ‘IGA’) kí ngày 15/12/1987 và Nghị định thư năm 1996;

- Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (viết tắt là ‘AIA’) kí ngày 7/10/1998 và Nghị định thư năm 2001;

- Nghị định thư tăng cường về cơ chế giải quyết tranh chấp kí ngày 29/11/2004.   

- Hiệp định toàn diện của ASEAN về đầu tư (viết tắt là ‘ACIA’) kí ngày 26/2/2009.

Hiệp định năm 1987 chứa đựng các tiêu chuẩn bảo hộ tương tự như nhiều điều ước về đầu tư khác, như bảo hộ đầy đủ, đối xử công bằng và thoả đáng, điều khoản bao trùm (‘an umbrella clause’), chuyển vốn và thu nhập về nước mình, và giải quyết tranh chấp. Quy định về đối xử NT và MFN để các nhà đầu tư ASEAN có thể vào các nước ASEAN một cách thuận lợi hơn không được đặt ra trong Hiệp định năm 1987. Thay vào đó, các chế độ này được quy định tại Hiệp AIA 11 năm sau đó. Việc kí kết Hiệp định khung này nhằm thiết lập một khu vực đầu tư ASEAN mang tính cạnh tranh với môi trường đầu tư tự do và minh bạch trong ASEAN.

Tuy nhiên, cả hai hiệp định cần được sửa đổi vì thuật ngữ pháp lí ở một số đoạn rất chung chung và mơ hồ, có thể bị giải thích theo nhiều cách. Do vậy, ASEAN đã kí kết Hiệp định ACIA vào năm 2009. Điều ước mới này có mục tiêu tạo ra một khung pháp lí về đầu tư cởi mở và tự do thông qua tự do hoá dần dần các quy định về đầu tư của các nước ASEAN và tăng cường sự bảo hộ đối với các nhà đầu tư trong nội khối ASEAN.  Hiệp định ACIA chưa có hiệu lực vì không phải tất cả mười nước ASEAN đã phê chuẩn Hiệp định. Các nước thành viên ASEAN đang hoàn tất các danh mục bảo lưu của ACIA và Hiệp định dự kiến sẽ sớm có hiệu lực khi Thái Lan phê chuẩn, nước duy nhất trong số mười nước thành viên vẫn chưa phê chuẩn ACIA. Hiệp định này sẽ thay thế các hiệp định năm 1987 và 1998 khi có hiệu lực. Tuy nhiên, các nhà đầu tư, nếu có các khoản đầu tư được bảo hộ bởi cả ba hiệp định, thì sẽ có quyền viện dẫn một trong ba hiệp định này trong thời gian ba năm kể từ khi các hiệp định 1987 và 1998 hết hiệu lực.

Hiệp định ACIA nhằm ‘tạo ra một khuôn khổ về đầu tư tự do và cởi mở trong ASEAN để đạt được mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong AEC (Cộng đồng kinh tế ASEAN)’.  Với 49 điều khoản và hai phụ lục, Hiệp định làm rõ và sửa đổi những điều khoản ngắn và mơ hồ của AIA và IGA về giải quyết tranh chấp giữa chính phủ nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư, vấn đề chuyển tiền về nước, và chế độ đối xử đối với đầu tư.

Hiệp định cũng đưa ra các điều khoản mới về cấm yêu cầu thực hiện các biện pháp đầu tư bị cấm (‘Performance Requirements’), và về nhân sự quản lí cấp cao và hội đồng quản trị, để từ đó thúc đẩy dòng chảy vào của nguồn nhân lực quản lí chủ chốt từ nước ngoài.

2- Các FTAs giữa ASEAN và các đối tác

2.1- ASEAN-Trung Quốc

Đối với Trung Quốc, các quan hệ thương mại và kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Các cuộc đàm phán về Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (viết tắt là ‘ACFTA’) đã chính thức được tiến hành từ năm 2001. Sau sáu vòng đàm phán, hai bên đã kí kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc (viết tắt là ‘ACFA’) tại Hội nghị cấp cao ASEAN- Trung Quốc vào ngày 4/11/2002. Cho tới nay, năm nước ASEAN đã phê chuẩn Hiệp định này. Hiệp định khung không đặt ra các quy định chi tiết về hội nhập kinh tế. Thay vào đó, theo Hiệp định ACFA, các nước ASEAN và Trung Quốc đã kí kết bốn hiệp định cụ thể khác. Hiệp định về thương mại hàng hoá năm 2004 quy định phương thức giảm thuế quan và loại bỏ thuế quan trong các dòng thuế đã liệt kê trong Danh mục IL hoặc Danh mục SL. Hiệp định về thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc được kí kết ngày 14/1/2007. Mức độ tự do hoá trong các cam kết của Hiệp định này cao hơn các cam kết mà các bên kí kết đưa ra trong GATS. Hiệp định về đầu tư của ASEAN và Trung Quốc được kí ngày 15/8/2009 và có hiệu lực ngày 1/1/2010. Tranh chấp giữa chính phủ với chính phủ phát sinh theo Hiệp định khung và các hiệp định liên quan do Hiệp định về cơ chế giải quyết tranh chấp của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc, kí ngày 29/11/2004, điều chỉnh.

2.2- ASEAN-Hàn Quốc

Sau khi hoàn thành các nghiên cứu về tính khả thi trong một năm, Hàn Quốc tuyên bố tại Hội nghị cấp cao ASEAN+3 vào tháng 12/2004 là nước này sẽ tiến hành đàm phán FTA với ASEAN vào năm 2005. Sau đó, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc (viết tắt là ‘AKFA’) và Nghị định thư của Hiệp định đã được kí kết tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Hàn Quốc lần thứ 9 vào ngày 13/12/2005. Tương tự như Hiệp định ACFA, Hiệp định AKFA cũng có hiệu lực ngày 1/7/2006 khi Hàn Quốc và ít nhất một nước thành viên ASEAN phê chuẩn. Hiện nay, đã có năm nước ASEAN phê chuẩn Hiệp định. Trong khuôn khổ Hiệp định AKFA, bốn Hiệp định chi tiết khác đã được kí kết và là các văn kiện pháp lí thiết lập FTA của ASEAN với Hàn Quốc. Hiệp định ASEAN-Hàn Quốc về thương mại hàng hoá (viết tắt là ‘AKTIG’), kí ngày 24/8/2006, đặt ra các thoả thuận thương mại ưu đãi giữa mười nước thành viên ASEAN và Hàn Quốc.Hiệp định ASEAN-Hàn Quốc về thương mại dịch vụ (viết tắt là ‘AKTIS’), kí ngày 21/11/2007, quy định các cam kết cao hơn các quy tắc hiện hành của GATS. Hiệp định này có thêm các ngành hay tiểu ngành mới trong danh mục cam kết và nới lỏng các hạn chế gia nhập thị trường và chế độ đối xử đối với nhiều lĩnh vực dịch vụ như kinh doanh, xây dựng, giáo dục, dịch vụ truyền thông, môi trường, dịch vụ du lịch và dịch vụ vận tải. Các điều khoản của Hiệp định ASEAN-Hàn Quốc về đầu tư (viết tắt là AKAI), kí ngày 2/6/2009, khá giống với các hiệp định khác của ASEAN về đầu tư để thiết lập môi trường pháp lí minh bạch và bảo đảm cho các nhà đầu tư của ASEAN và Hàn Quốc cũng như các khoản đầu tư của họ. Hiệp định ASEAN-Hàn Quốc về cơ chế giải quyết tranh chấp, kí ngày 13/12/2005, quy định cơ chế giải quyết tranh chấp giữa chính phủ với chính phủ phát sinh từ các hiệp định nói trên, bao gồm cả Hiệp định khung, trừ các tranh chấp giữa nhà đầu tư và chính phủ nước tiếp nhận đần tư thì theo quy định của Hiệp định AKAI.

2.3- ASEAN-Nhật Bản

Theo Dữ liệu thống kê ASEAN FDI, kể từ tháng 5/2009, trong số các đối tác của ASEAN, Nhật Bản là nước có dòng vốn FDI vào ASEAN lớn thứ hai. Tháng 1/2002, Thủ tướng Nhật Bản Kô-i-du-mi đã đề xuất ý tưởng một hiệp định đối tác toàn diện ASEAN-Nhật Bản. Hiệp định đối tác toàn diện ASEAN-Nhật Bản (viết tắt là ‘AJCEP’) sau đó đã được kí kết ngày 8/10/2003. Hiệp định này quy định các biện pháp thúc đẩy và hợp tác đàm phán các quy tắc về thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư giữa các bên. Các cuộc đàm phán AJCEP được bắt đầu ở Tô-ky-ô vào tháng 4/2005. Sau ba năm, ASEAN và Nhật Bản kí kết Hiệp định AJCEP vào ngày 7/4/2008. ASEAN và Nhật Bản không áp dụng cách tiếp cận của ASEAN và Trung Quốc hay Hàn Quốc. Hai bên không đàm phán các hiệp định riêng rẽ về từng lĩnh vực cụ thể. Thay vào đó, AJCEP là hiệp định toàn diện với 10 chương và 80 điều khoản, quy định các biện pháp thúc đẩy và hợp tác, cũng như tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư và giải quyết tranh chấp. Hiệp định có hiệu lực ngày 1/12/2008. Tám nước ASEAN và Nhật Bản đã phê chuẩn Hiệp định này. 

2.4- ASEAN-Ấn Độ

Hiệp định khung ASEAN-Ấn Độ về hợp tác kinh tế toàn diện, trong đó bao gồm một khu vực thương mại tự do về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, đã được kí kết ngày 8/10/2003. Trong khuôn khổ Hiệp định khung này, các hiệp định sau đây đã được kí kết: Hiệp định ASEAN-Ấn Độ về thương mại hàng hoá (AITIG) và Hiệp định ASEAN-Ấn Độ về cơ chế giải quyết tranh chấp, cả hai cùng được kí ngày 13/8/2009. ASEAN và Ấn Độ hiện đang đàm phán các Hiệp định ASEAN-Ấn Độ về thương mại dịch vụ và đầu tư.

2.5- ASEAN-Úc và Niu Di-lân

Giống như trong mối quan hệ pháp lí về hội nhập kinh tế giữa ASEAN và Nhật Bản, các quy tắc điều chỉnh hợp tác kinh tế giữa ASEAN, Úc và Niu Di-lân được quy định trong một văn kiện toàn diện, Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN-Úc-Niu-Di-lân (viết tắt là ‘AANZFTA’) kí ở Thái Lan ngày 27/2/2009. Bốn nước ASEAN đã phê chuẩn Hiệp định. 

Hiệp định AANZFTA điều chỉnh thương mại hàng hoá và dịch vụ, thương mại điện tử, dịch chuyển của thể nhân, đầu tư, hợp tác kinh tế, giải quyết tranh chấp và các điều khoản chi tiết về thủ tục hải quan, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kĩ thuật, IPRs và cạnh tranh. Các bên cam kết: 

- Tự do hoá dần dần thuế quan kể từ khi Hiệp định có hiệu lực và giảm thuế quan ít nhất 90% tất cả các dòng thuế quan trong các lộ trình cụ thể;

- Loại bỏ dần dần các rào cản thương mại dịch vụ và cho phép các nhà cung ứng dịch vụ của các bên kí kết khác có được khả năng tiếp cận thị trường nhiều hơn;

- Tạo thuận lợi cho sự dịch chuyển của thể nhân - là những người tham gia các hoạt động thương mại và đầu tư trong khu vực;

- Bảo hộ các khoản đầu tư trong phạm vi điều chỉnh;

- Tạo thuận lợi cho sự dịch chuyển hàng hoá bằng việc thực thi các điều khoản cụ thể về quy tắc xuất xứ, thủ tục hải quan, các biện pháp SPS; tiêu chuẩn, quy chuẩn kĩ thuật và các thủ tục đánh giá sự phù hợp.

Các phụ lục của Hiệp định AANZFTA chứa đựng các biểu cam kết cụ thể của các bên.

ASEAN đã rất tích cực trong việc đưa ra các quy tắc về hội nhập kinh tế trong khu vực và giữa ASEAN với các đối tác. Phần khái quát trên về khuôn khổ pháp lí của ASEAN cho thấy quyết tâm xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) như đã được nêu ra trong Bản kế hoạch chi tiết về AEC rằng:

AEC là việc hiện thực hoá mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế như được nêu trong Tầm nhìn 2020, văn kiện được xây dựng trên sự hội tụ các lợi ích của các nước thành viên ASEAN, nhằm làm cho hội nhập kinh tế sâu và rộng hơn nữa thông qua các sáng kiến mới và hiện có với lộ trình rõ ràng. Khi thiết lập AEC, ASEAN sẽ hành động theo các nguyên tắc của một nền kinh tế mở, có tầm nhìn xa, mở rộng và kinh tế thị trường, phù hợp với các quy tắc đa phương cũng như tuân thủ luật pháp, nhằm đạt được sự tuân thủ và thực thi hiệu quả các cam kết kinh tế.

Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).

0 bình luận, đánh giá về Pháp luật về hội nhập kinh tế ASEAN

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.96810 sec| 1014.766 kb