Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị

23/02/2023
Lê Thị Linh Chi
Lê Thị Linh Chi
Nhà nước tạo mọi điều kiện để các tổ chức chính trị hoạt động, như đảm bảo cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và hoạt động của nó, hỗ trợ về mặt kinh phí hoạt động, ủy quyền quản lý nhà nước cho các tổ chức này trong những trường hợp nhất định.

1- Quan hệ giữa nhà nước với các đảng chính trị

Đảng chính trị là tổ chức chính trị bao gồm những người cùng chí hướng được thành lập nhằm mục tiêu giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.

Có nhiều cách phân loại đảng phái chính trị, theo cách phân loại tương đối phổ biến hiện nay, các đảng phái chính trị được phân chia thành đảng cầm quyền, đảng đối lập và các đảng phái khác. Quan hệ giữa nhà nước với các đảng chính trị được thể hiện thông qua việc thực hiện vai trò của hai bên đối với nhau.

- Vai trò của nhà nước đối với các đảng chính trị

Trước hết nhà nước tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành, tồn tại, phát triển của các đảng chính trị, tạo cơ sở pháp lý để cho các đảng chính trị được tham gia một cách hợp pháp và bình đẳng vào bộ máy chính quyền nhà nước thông qua các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, công khai, minh bạch, đồng thời tạo mọi điều kiện cho các đảng chính trị hoạt động. Việc nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các đảng chính trị chính là sự thừa nhận chính thức của nhà nước về vai trò quan trọng của các đảng chính trị đối với đời sống chính trị của quốc gia nói chung, trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nói riêng.

Vào nửa cuối thế kỉ XIX, ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về các đảng chính trị. Chẳng hạn 17 bang ở Mỹ đã ban hành luật bầu cử, trong đó quy định sự tham gia của các đảng chính trị vào bầu cử. Sau chiến tranh thế giới thứ hai và trong mấy thập niên gần đây thì vị trí, vai trò của các đảng chính trị trong đời sống chính trị nói chung, trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nói riêng đã được đưa vào hiến pháp của nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Ngoài ra, hiến pháp của nhiều nước còn quy định vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đảng chính trị và xử lý những đảng chính trị vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 quy định nếu đảng chính trị có mục đích và hoạt động trái pháp luật thì Chính phủ sẽ đề xuất ý kiến giải thể với Toà án hiến pháp và đảng đó bị giải thể theo quyết định của Toà án hiến pháp (khoản 4 Điều 8).

Dưới sự tác động của tình hình chính tộ trên thế giới tới đời sống chính trị trong nước, đã xuất hiện nhu cầu cần điều chỉnh hoạt động của các đảng chính trị bằng một đạo luật riêng. Năm 1955, ở Achentina đã thông qua đạo luật đầu tiên về các đảng chính trị. Sau đó là các đạo luật về đảng chính trị ở Cộng hoà liên bang Đức năm 1967, Braxin năm 1971, Bồ Đào Nha năm 1974...

Nhiều nước còn ban hành các đạo luật điều chỉnh các quan hệ tài chính trong các đảng chính trị. Chẳng hạn, Luật về kiểm tra các quỹ chính trị của Nhật Bản năm 1948 (được bổ sung năm 1975); Luật của Thụy Điển năm 1965 quy định về việc cấp kinh phí cho các đảng chính trị; sắc lệnh của Phần Lan năm 1969 về việc cấp kinh phí cho các đảng; Luật của Italia năm 1974 về sự tham gia của nhà nước trong việc cấp kinh phí cho các đảng chính trị; Luật về tài chính công khai trong đời sống chính trị năm 1988 ở Pháp...

Trong các văn bản quy phạm pháp luật về các đảng chính trị nói trên, bên cạnh quy định sự tham gia của các đảng chính trị vào cuộc bầu cử vào nghị viện hay bầu cử tổng thống, bầu cử chính quyền địa phương, còn xác định những hình thức hoạt động của các đảng chính trị vào việc hình thành ý chí chính trị chung của nhân dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị; tham gia vào các hoạt động của nghị viện, chính phủ; đề cử người của đảng mình vào các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước; giáo dục ý thức công dân, động viên nhân dân tham gia tích cực hơn vào đời sống chính trị quốc gia...

Để tạo điều kiện cho các đảng chính trị hoạt động chính trị, pháp luật về các đảng chính trị ở nhiều nước trên thế giới đều coi các đảng chính trị là những pháp nhân, có khá nhiều quyền chính trị, như đề cử thành viên của đảng mình nắm giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước; có các cơ quan ngôn luận riêng; được phép tổ chức mít tinh, biểu tình, tuần hành; có quyền sử dụng các phương tiện thông tin đại chủng của nhà nước trong các cuộc vận động bầu cử; có quyền phê phán, phản biện các chính sách của chính quyền.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest

- Vai trò của các đảng chính trị đối với nhà nước

Vai trò của các đảng chính trị đối với nhà nước thể hiện ở giai đoạn trước khi trở thành đảng cầm quyền (tức là nắm được quyền lực nhà nước) và sau khi trở thành đảng cầm quyền. 

[i] Trước khi nắm được quyền lực nhà nước, các đảng chính trị phải phấn đấu để trở thành đảng cầm quyền, coi đây là nhiệm vụ chủ yếu của các đảng chính trị. Để đạt được mục tiêu đó thì trước hết, đảng chính trị phải xây dựng cho được một chương trình hành động để trở thành đảng cầm quyền. 

Trước hết, đảng chính trị phải tập hợp, đoàn kết tất cả những đảng viên có những quan điểm, lập trường, ý chí, nguyện vọng khác nhau thành một khối thống nhất, có ý chí chung và hành động thống nhất để trở thành đảng cầm quyền.

Tiếp theo, đảng chính trị giới thiệu ứng cử viên bầu vào nghị viện và các vị trí khác trong bộ máy nhà nước. Việc giới thiệu ứng cử viên bầu vào nghị viện và các vị trí khác trong bộ máy nhà nước là thẩm quyền của mỗi đảng chính trị. Đây cũng là một thông lệ chính trị chứ không nhất thiết phải được quy định trong pháp luật. Thực tiễn cho thấy, không mấy ai ứng cử tự do mà thắng cử. Bởi vậy, nhìn chung, các ứng cử viên đều được các đảng chính trị giới thiệu. Đảng chính trị trực tiếp đi vận động bầu cử bằng chương trình hành động cụ thể nếu trở thành đảng cầm quyền. Cuộc vận động bầu cử là một cuộc đấu trí, cuộc đấu tranh về trí tuệ quyết liệt, đòi hỏi các ứng cử viên của mỗi đảng chính trị vừa phải có kiến thức, bản lĩnh, vốn sống, vừa cần có kĩ năng thuyết trình, trình bày và có nghệ thuật thuyết phục cử tri.

[ii] Vai trò của các đảng chính trị sau khi thắng cử trở thành đảng cầm quyền được thể hiện như sau: Trong các nước theo chế độ cộng hoà nghị viện (như Đức, Ý...), quân chủ nghị viện (như Anh, Nhật...) và cộng hoà hỗn hợp (như Pháp...), nếu đảng chính trị nào thắng cử bằng đa số ghế trong nghị viện thì đảng chính trị đó đứng ra thành lập chính phủ và thủ lĩnh đảng chính trị đó được nghị viện bầu làm thủ tướng chính phủ. Nếu không có đảng nào chiếm đa số ghế trong nghị viện thì thành lập chính phủ liên minh các đảng chính trị. Đồng thời, đảng chính trị cầm quyền hay liên minh các đảng chính trị cầm quyền có trách nhiệm hoạch định chính sách đối nội, đối ngoại để nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật.

Ở những nước theo chế độ cộng hoà tổng thống (như Mỹ), khi ứng cử viên tổng thống của đảng chính trị nào đó giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống thì tân tổng thống thành lập chính phủ và chính phủ hoàn toàn phụ thuộc vào tổng thống. Đường lối, chính sách của tổng thống và của chính phủ đều phản ánh ý chí, lợi ích của đảng cầm quyền mà tổng thống là đảng viên. Vai trò lãnh đạo, điều hành bộ máy nhà nước nhằm thực thi quyền lực nhà nước của đảng cầm quyền được thể hiện ở những hoạt động sau đây:

(a) Hoạch định đường lối chiến lược về đối nội, đối ngoại để nhà nước thể chế hoá thành pháp luật;

(b) Chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật của nhà nước;

(c) Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của mình trong các tầng lóp nhân dân, các đảng phái đối lập khác; vận động nhân dân ủng hộ và thực hiện đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại của mình;

(d) Chỉ đạo hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của nhà nước;

(e) Lãnh đạo việc cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với yêu cầu thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại trong tình hình mới ở trong nước và trên thế giới. 

Các đảng chính trị chiếm thiểu số ghế trong nghị viện hoặc không thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống (ở những nước theo chế độ cộng hoà tổng thống) trở thành đảng đối lập với đảng cầm quyền. Vai trò của các đảng đối lập cũng khá quan trọng đối với việc thực thi quyền lực nhà nước, nhất là ở những nước có hệ thống lưỡng đảng chính trị thay phiên nhau cầm quyền như Đảng dân chủ và Đảng cộng hoà ở Mỹ; Đảng bảo thủ và Công Đảng ở Anh. ở Anh, pháp luật cho phép đảng đối lập thành lập “chính phủ trong bóng tối” (chính phủ mờ), thủ tướng chính phủ mờ được nhà nước trả lương. Nhiệm vụ chủ yếu của các đảng đối lập là tìm ra những khiếm khuyết trong chính sách và trong hoạt động thực tiễn của đảng cầm quyền, của chính phủ, thủ tướng chính phủ, hoặc của tổng thống (trong nhà nước cộng hoà tổng thống), sau đó phản ánh, yêu cầu đảng cầm quyền sửa đổi hay bãi bỏ các chính sách đó hoặc uốn nắn các hoạt động của chính phủ, thủ tướng chính phủ, hoặc của tổng thống (trong nhà nước cộng hoà tổng thống).

Bên cạnh đó, các đảng chính trị đối lập còn thường xuyên theo dõi, canh chừng mọi hoạt động của những người nắm giữ quyền lực nhà nước, cảnh báo kịp thời và nhanh chóng cho họ biết những nguy cơ sai lầm hay nguy cơ dẫn đến hậu quả xấu để họ phòng tránh. Như vậy, hoạt động của các đảng đối lập cũng mang lại những lợi ích nhất định trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, giúp nhà cầm quyền thận trọng hơn khi ban hành chính sách, pháp luật và khi hoạt động thực tiễn. Người ta gọi sự đối lập này là sự đối lập có trách nhiệm. Các đảng chính trị khác, mặc dù không được tham gia vào bộ máy chính quyền nhà nước nhưng vẫn có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện chính sách của đảng cầm quyền hay liên minh các đảng cầm quyền, tôn trọng và thực hiện pháp luật của nhà nước. 

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hành chính của Công ty Luật TNHH Everest 

2- Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức xã hội khác

Tổ chức xã hội là tập hợp quần chúng, được thành ỉập trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản, hoạt động vì lợi ích chính đáng của các thành viên và lợi ích chung của xã hội. Trong quan hệ giữa nhà nước với tổ chức xã hội thì nhà nước quản lý tổ chức xã hội bằng pháp luật, còn tổ chức xã hội chịu sự quản lý của nhà nước và thực hiện pháp luật một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất. Các tổ chức xã hội có quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; hoạt động xã hội trong khuôn khổ pháp luật để đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của các thành viên, góp phần bảo vệ lợi ích chung của xã hội. 

Trong hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa có khá nhiều các tổ chức xã hội tham gia vào quá trình thực hiện quyền lực chính trị nói chung, thực hiện quyền lực nhà nước nói riêng. Các tổ chức xã hội đó chính là các nhóm lợi ích chính trị. Nhóm lợi ích chính trị là một tổ chức (hay một tập hợp) những người có cùng quan điểm chính trị - xã hội, có chung mục đích là thoả mãn nhu cầu, lợi ích chính trị bằng cách gây ảnh hưởng, tác động đến chính quyền nhà nước trong việc hoạch định chính sách, sao cho chính sách đó phản ánh được lợi ích chính trị của các thành viên của nhóm. Trong những tổ chức xã hội có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của nhà nước thì nổi bật nhất là công đoàn, báo chí và truyền thông, tổ chức tôn giáo.

Công đoàn là tổ chức đại diện cho quyền lợi của người lao động và có nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Trước hết, công đoàn có quan hệ chặt chẽ với chính phủ và trở thành người “cộng sự xã hội” đắc lực của chính phủ trong việc hoạch định chính sách và các quyết định quan trọng liên quan đến nhu cầu, lợi ích của người lao động. Với việc thực hiện cơ chế ba bên (chính phủ, giới chủ và giới thợ), công đoàn đã phát huy được vai trò của mình trong cuộc đấu tranh cho những nhu cầu, lợi ích chính đáng về kinh tế, chính trị - xã hội của người lao động.

Như vậy, với các hoạt động xã hội của mình, công đoàn đã góp phần ổn định tâm lý xã hội, nhất là đối với người lao động, tạo lập niềm tin của xã hội vào nhà nước, góp phần quan trọng vào việc củng cố cơ sở xã hội của nhà nước. Càng ngày nhà nước tư sản càng thấy được vị trí, vai trò to lớn của công đoàn trong đời sống chính trị quốc gia và tìm mọi cách để thắt chặt mối quan hệ giữa nhà nước với công đoàn.

Báo chí, truyền thông được đánh giá là nhánh quyền lực thứ tư trong xã hội tư bản (bên cạnh các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp), có vai trò quan trọng trong việc điều khiển dư luận xã hội, cho nên các nhà nước tư sản tìm mọi cách nắm được hệ thống báo chí, truyền thông để thực thi quyền lực của mình. Một mặt, nhà nước tư sản kiểm soát chặt chẽ tổ chức báo chí, truyền thông; mặt khác, tạo mọi điều kiện cần thiết cho tố chức báo chí, truyền thông hoạt động vì mục đích chính trị của nhà nước như truyền bá tư tưởng, văn hoá của giai cấp tư sản, thực hiện chiến tranh tâm lý, diễn biến hoà bình... Như vậy, hoạt động của tổ chức báo chí, truyền thông cũng phản ánh lợi ích, đặc điểm văn hoá và mưu đồ chính trị của tầng lóp chóp bu cầm quyền của giai cấp tư sản.

Tổ chức tôn giáo cũng là bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa và có quan hệ chặt chẽ với nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản thừa nhận vai trò quan trọng của các tổ chức tôn giáo trong đời sống chính trị nói chung, trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước nói riêng; cho phép các tổ chức tôn giáo can thiệp vào hoạt động nhà nước. Chẳng hạn, Tổng thống Mỹ Anxenhao đã từng tuyên bố: “Việc nắm giữ quyền lực của chúng ta sẽ không có ý nghĩa gì nếu như nó không được đặt cơ sở ở một niềm tin tôn giáo sâu sắc”; tổ chức Công giáo của Pháp được Nhà nước Pháp cho phép sử dụng đài phát thanh và vô tuyến truyền hình để tuyên truyền giáo lý và chính trị; tổ chức Công giáo và đạo Tin lành ở Đức được pháp luật cho phép tuyên truyền giáo lý và chính trị sâu rộng; ở Anh, người nào không theo tôn giáo không được ứng cử vào Nghị viện; ở Italia, Công giáo Rôma được thành lập một quốc gia đô thị Vatican trên toàn lãnh thổ Italia.

Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhiều tổ chức của nhân dân cũng tham gia rất tích cực vào đời sống chính trị của đất nước, trong đó nổi bật là tổ chức công đoàn, hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên... Các tồ chức này được xem là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước, đóng góp ý kiến vào các hoạt động của nhà nước; tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho thành viên, hội viên của tổ chức mình; cùng với nhà nước chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân... Nhà nước tạo mọi điều kiện để các tổ chức này hoạt động như đảm bảo cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và hoạt động của nó, hỗ trợ về mặt kinh phí hoạt động, ủy quyền quản lý nhà nước cho các tổ chức này trong những trường hợp nhất định...

Xem thêm: Pháp trị tại Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.18731 sec| 1007.406 kb