Quy định của pháp luật về hợp đồng đại lý

11/03/2023
Lê Thị Quỳnh Anh
Lê Thị Quỳnh Anh
Ở Việt Nam, theo quy định trong Luật thương mại năm 2005, hoạt động trung gian thương mại được xác định là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định. Một trong số các hình thức trung gian thương mại khá phổ biến hiện nay là hình thức đại lý thương mại.

1- Khái niệm hợp đồng đại lý

Trước tiên, chúng ta cần hiểu rõ đại lý thương mại là gì? Đại lý thương mại là một hình thức trung gian thương mại có bên giao đại lý và bên đại lý theo đó thì bên đại lý nhân danh chính mình thực hiện mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý để hưởng thù lao và được cụ thể hóa tại điều 166 Luật Thương mại năm 2005: “Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao” và các bên đại lý và giao đại lý quan hệ với nhau bởi hợp đồng đại lý. Nội dung này được quy định tại điều 168 Luật Thương mại năm 2005 “ Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”.

Theo quy định tại điều 385 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí của các bên để phát sinh, thay đổi chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Luật Thương mại năm 2005 không quy định về khái niệm hợp đồng, tuy nhiên từ các quy định trên và các quy định của Bộ Luật Dân sự có thể rút ra khái niệm về  hợp đồng đại lý thương mại như sau: Hợp đồng đại lý là sự thỏa thuận giữa bên giao đại lý và bên đại lý về việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.

Như vậy, đại lý thương mại về bản chất là một hình thức đại diện thương mại, bên đại lý thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ vì lợi ích của bên giao đại lý. Bên đại lý không phải là người mua hàng của bên giao đại lý mà hàng hóa được giao cho bên đại lý để bên này tiếp tục bán cho người thứ ba. Như vậy, trong mọi trường hợp bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa do vậy chịu trách nhiệm đối với mọi rủi ro đối với hàng hóa đó cho dù thực tế hàng hóa và quyền định đoạt hàng hóa đã được chuyển giao cho bên đại lý. Thông qua hành vi bán hàng hóa của bên đại lý, quyền sở hữu hàng hóa được chuyển trực tiếp từ bên giao đại lý sang người thứ ba. Quan hệ giữa bên giao đại lý và bên đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý còn quan hệ giữa bên đại lý và người thứ ba là quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Bên đại lý nhân danh chính mình trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa do đó phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước bên thứ ba nếu vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Xét về bản chất hợp đồng đại lý là một hợp đồng cung ứng dịch vụ trên cơ sở hợp đồng này, bên đại lý nhận sự ủy quyền của bên giao đại lý trong việc định đoạt hàng hóa và nhân danh chính mình thực hiện việc định đoạt hàng hóa vì lợi ích của bên giao đại lý.

2- Đặc điểm của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa

2.1- Chủ thể của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa là các thương nhân.

Quan hệ đại lý mua và bán sản phẩm, hàng hóa được thiết kế xây dựng trên cơ sở hợp đồng, giữa bên giao đại lý và bên đại lý. Theo điều 167 Luật thương mại năm 2005: “ 1. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền triển khai dịch vụ cho đại lý đáp ứng dịch vụ. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền đáp ứng dịch vụ”.

Như vậy theo quy định của pháp luật thì cả bên giao đại lý và bên đại lý đều phải là thương nhân (điều 6 Luật Thương mại năm 2005). Bên giao đại lý và bên đại lý phải là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Bên giao đại lý là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua. Đối với hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng đại lý sau khi được Bộ Công Thương cho phép. Để hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa có hiệu lực pháp luật thì các bên phải có năng lực chủ thể thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.

2.2- Bên đại lý phải dùng chính danh nghĩa của mình để thực hiện việc mua bán hàng hóa cho bên giao đại lý.

Đây là một đặc thù quan trọng của hợp đồng đại lý, được cho phép phân biệt hợp đồng đại lý với hợp đồng đại diện thay mặt cho thương nhân. Trong quan hệ hợp đồng đại lý, do bên giao đại lý triển khai việc mua, bán sản phẩm và hàng hóa cho mình trải qua bên đại lý nên bắt buộc phải có quyền kinh doanh thương mại những sản phẩm và hàng hóa đó, hay nói cách khác là phải có ngành, nghề kinh doanh thương mại tương thích với sản phẩm và hàng hóa đại lý. Do bên đại lý thực thi việc mua, bán sản phẩm và hàng hóa cho bên giao đại lý bằng chính danh nghĩa của mình nên phải có ngành, nghề kinh doanh thương mại tương thích với sản phẩm và hàng hóa đại lý mua, đại lý bán. Từ nghĩa vụ và trách nhiệm đơn cử của bên đại lý là nhân danh chính mình để triển khai việc mua hoặc bán một khối lượng sản phẩm và hàng hóa nhất định cho bên giao đại lý nên bên giao đại lý phải có đăng ký kinh doanh thương mại mẫu sản phẩm tương thích với sản phẩm và hàng hóa ghi trong hợp đồng .

2.3- Chủ sở hữu hàng hóa là bên giao đại lý, đại lý chỉ là người được bên giao đại lý giao việc định đoạt hàng hóa. Bên giao đại lý hoàn toàn không chuyển quyền sở hữu hàng hóa đối với trường hợp đại lý bán hoặc tiền đối với trường hợp đại lý mua.

Cơ sở để bên đại lý bán hoặc mua sản phẩm và hàng hóa cho bên giao đại lý là sự ủy nhiệm quyền mua, bán sản phẩm và hàng hóa của bên giao đại lý. Đặc điểm này làm cho hợp đồng đại lý mua và bán sản phẩm và hàng hóa trọn vẹn khác hợp đồng mua và bán hàng hóa. Đặc trưng điển hình nổi bật nhất của hợp đồng mua và bán sản phẩm và hàng hóa là có sự chuyển quyền hữu sản phẩm và hàng hóa cũng như chuyển giao rủi ro đáng tiếc từ người bán sang cho người mua, trừ trường hợp những bên có thỏa thuận hợp tác khác. Trong quan hệ đại lý mua và bán sản phẩm và hàng hóa, bên đại lý chỉ giao sản phẩm và hàng hóa cho bên đại lý bán hàng mà không chuyển quyền chiếm hữu, sở hữu sản phẩm và hàng hóa cho bên đại lý,bên giao đại lý chỉ chuyển quyền chiếm hữu sản phẩm và hàng hóa cho bên đại lý . Khi bên đại lý giao kết, triển khai hợp đồng với người mua, quyền sở hữu sản phẩm và hàng hóa sẽ được chuyển từ bên giao đại lý sang cho người mua. Bên đại lý chỉ có vai trò của một người làm dịch vụ trung gian, là cầu nối giữa bên giao đại lý với người mua. Với tư cách là chủ sở hữu của sản phẩm và hàng hóa, bên giao đại lý được toàn quyền định đoạt so với sản phẩm và hàng hóa của mình cũng như phải chịu rủi ro đáng tiếc so với sản phẩm & hàng hóa cũng như gánh chiu mọi nghĩa vụ và trách nhiệm với người mua về chất lượng của sản phẩm và hàng hóa trừ trường hợp sản phẩm và hàng hóa hư hỏng do lỗi của bên đại lý .

2.4- Hợp đồng đại lý là một dạng của hợp đồng dịch vụ.

Bên đại lý bán sản phẩm và hàng hóa hoặc mua hàng cho bên giao đại lý để nhận thù lao. Trong quan hệ hợp đồng đại lý, quyền lợi bên đại lý được hưởng chính là thù lao đại lý mà xét dưới góc nhìn pháp lý thì khoản tiền này chính là thù lao dịch vụ mà bên giao đại lý phải giao dịch thanh toán cho bên đại lý do sử dụng dịch vụ mua và bán sản phẩm & hàng hóa của bên đại lý.

2.5- Để thực hiện hoạt động đại lý, bên đại lý phải thực hiện các hành vi thực tế.

Bên đại lý nhận sản phẩm và hàng hóa từ bên giao đại lý để giao cho người mua trong trường hợp đại lý bán, hoặc nhận tiền từ bên giao đại lý để giao dịch thanh toán cho người mua ; nhận hàng từ người mua để giao cho bên đại lý trong trường hợp đại lý mua hàng. Đặc điểm này giúp phân biệt hợp đồng đại lý với hợp đồng ủy thác mua và bán sản phẩm và hàng hóa, trong đó bên được ủy thác đa phần triển khai những hành vi pháp lý (bên được ủy thác chỉ sử dụng danh nghĩa của mình ký hợp đồng với người mua ; còn việc giao hàng, giao dịch thanh toán hoàn toàn có thể được thực thi trực tiếp giữa bên ủy thác với khác hàng). Bên đại lý mua và bán sản phẩm và hàng hóa được tự do hơn bên nhận ủy thác trong việc lựa chọn bên thứ ba để giao kết và triển khai hợp đồng. Việc bên nhận ủy thác triển khai mua và bán sản phẩm và hàng hóa cho bên ủy thác phải tuân thủ khắt khe hướng dẫn của bên ủy thác. Nhưng bên đại lý trong quan hệ đại lý mua và bán sản phẩm và hàng hóa được tự do trong việc tìm kiếm, giao kết hợp đồng với những bên thứ ba mà không chịu sự ảnh hưởng tác động của bên giao đại lý .

3- Các hình thức đại lý thương mại và hình thức của hợp đồng đại lý thương mại

3.1- Các hình thức đại lý thương mại

Đại lý thương mại bao gồm các hình thức được quy định cụ thể tại điều 169 Luật Thương mại năm 2005 như sau:

– Đại lý bao tiêu :là hình thức đại lý mà bên đại lý triển khai việc mua, bán toàn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc đáp ứng không thiếu một dịch vụ cho bên giao đại lý.

 – Đại lý độc quyền: là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc 1 số ít mẫu sản phẩm hoặc đáp ứng một hoặc một số ít loại dịch vụ nhất định.

 – Tổng đại lý: mua và bán hàng hoá, đáp ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà bên đại lý tổ chức triển khai một mạng lưới hệ thống đại lý thường trực để triển khai việc mua và bán hàng hoá, đáp ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện thay mặt cho mạng lưới hệ thống đại lý thường trực. Các đại lý thường trực hoạt động giải trí dưới sự quản trị của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý.

 – Các hình thức đại lý khác mà những bên thỏa thuận hợp tác .

3.2- Hình thức hợp đồng đại lý

Quan hệ đại lý thương mại được xác lập bằng hợp đồng đại lý thương mại. Hợp đồng đại lý thương mại được hiểu là sự thỏa thuận hợp tác giữa những bên trong đó bên giao đại lý nhân danh mình mua và bán sản phẩm và hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc đáp ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho người mua và bên giao đại lý có nghĩa vụ và trách nhiệm trả thù lao cho hoạt động giải trí đại lý này của bên đại lý. Hình thức của hợp đồng đại lý được quy định cụ thể tại điều 168 Luật Thương mại năm 2005 “ Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”. Từ quy định trên có thể thấy rằng hình thức của hợp đồng phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương. Về mặt pháp lý, hợp đồng bằng miệng và hợp đồng bằng văn bản có giá trị pháp lý ngang nhau. Hình thức khác có giá trị tương đương được quy định tại khoản 15 Điều 3 Luật thương mại 2005: “Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.” Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp, hợp đồng bằng văn bản sẽ có độ tin cậy và tính khách quan cao hơn so với hợp đồng miệng.

0 bình luận, đánh giá về Quy định của pháp luật về hợp đồng đại lý

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.42623 sec| 978.906 kb