Quyền sở hữu trí tuệ và hiệp định TRIPS

07/03/2023
Xuất phát từ đặc tính vô hình và khía cạnh thương mại, tài sản trí tuệ dễ dàng vượt qua biên giới quốc gia và là thành tố gắn bó mật thiết với hoạt động thương mại quốc tế. Quyền sở hữu trí tuệ (viết tắt là IPRs) có mối quan hệ chặt chẽ với thương mại quốc tế, cho dù IPRs có tính lãnh thổ. IPRs có thể tham gia vào các giao dịch thương mại quốc tế dưới hai dạng: (i) Gắn với hàng hoá xuất nhập khẩu được bảo hộ IPRs (bao gồm hàng hoá xuất khẩu/nhập khẩu theo các kênh phân phối chính thức được sự cho phép của chủ thể nắm giữ IPRs và hàng hoá xuất khẩu/nhập khẩu song song theo các kênh nhập khẩu/xuất khẩu song song);  và (ii) Là đối tượng trực tiếp trong các giao dịch thương mại quốc tế liên quan đến IPRs như chuyển nhượng IPRs, chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ, nhượng quyền thương mại và chuyển giao công nghệ. Mối quan hệ giữa IPRs và thương mại quốc tế rất rõ ràng trong một số lĩnh vực. Ví dụ, kiểu dáng công nghiệp có mối quan hệ không thể phủ nhận với lĩnh vực dệt may, và chỉ dẫn địa lí có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động thương mại liên quan đến các sản phẩm nông nghiệp.

1- Tổng quan về Hiệp định TRIPS

1.1- Lịch sử của Hiệp định TRIPS

Hiệp định TRIPS được thiết lập với ý nghĩa là một phần của những thoả thuận thương mại đa phương trong Vòng đàm phán U-ru-goay. Đây là lần đầu tiên các khía cạnh thương mại của IPRs được đàm phán. Kết quả của các cuộc đàm phán đó được thể hiện trong Phụ lục 1C của Hiệp định thành lập WTO, được thông qua tại Ma-ra-két ngày 15/4/1994 và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các thành viên WTO từ ngày 1/1/1995. Hiệp định TRIPS là một trong những trụ cột quan trọng nhất của WTO và bảo hộ sở hữu trí tuệ trở thành một phần không thể tách rời trong hệ thống thương mại đa phương của WTO.

1.2- Hiệp định TRIPS: Quyền sở hữu trí tuệ và thương mại quốc tế

Hiệp định TRIPS: Hiệp định đa phương toàn diện nhất về sở hữu trí tuệ cho đến nay

Trong mối tương quan với các thoả thuận quốc tế khác về IPRs, Hiệp định TRIPS được coi là toàn diện nhất xuất phát từ những đặc điểm sau đây của Hiệp định: (i) Là kết quả của sự kết hợp một số công ước quốc tế ra đời trước đó; (ii) Thiết lập các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu trong thời hạn cụ thể cho hầu hết các đối tượng sở hữu trí tuệ, đó là quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lí, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế (bao gồm giống cây trồng), thiết kế bố trí mạch tích hợp, thông tin bí mật; (iii) Chứa đựng những quy định mở; và (iv) Thiết lập những quy định thực thi IPRs.

Thứ nhất, Hiệp định TRIPS là kết quả của sự kết hợp những điều ước quốc tế quan trọng nhất trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Những điều ước quốc tế này là Công ước Pa-ri, Công ước Béc-nơ, Công ước Rô-ma, Công ước Oa-sinh-tơn. Quy định của những điều ước quốc tế này có hiệu lực bắt buộc thậm chí đối với những nước chưa phê chuẩn điều ước, trừ Công ước Rô-ma có hiệu lực bắt buộc với những nước đã là thành viên của Công ước.

Sự kết hợp của các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ nêu trên trong Hiệp định TRIPS được xem xét và giải thích trong khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong các vụ US-Section 211 Appropriations Act (US-Havana Club)  và EC-Bananas (Article 22.6-Ecuador). Trong vụ US-Section 211 Appropriations Act (US-Havana Club), Cơ quan phúc thẩm chỉ ra rằng các thành viên có nghĩa vụ bảo hộ tên thương mại theo Điều 8 Công ước Pa-ri (1967), bởi vì quy định này đã được chuyển tải vào Điều 2 Hiệp định TRIPS. 

Thứ hai, Hiệp định TRIPS thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu về bảo hộ IPRs cho tất cả các thành viên WTO, bất kể trình độ phát triển. Đối với mỗi đối tượng sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS thiết lập những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu mà các thành viên phải tuân thủ. Nội dung chính của những tiêu chuẩn này là đối tượng được bảo hộ, đối tượng không được bảo hộ, quyền (bao gồm thời hạn bảo hộ tối thiểu), những trường hợp ngoại lệ của những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu. Những tiêu chuẩn này được thể hiện trong Hiệp định TRIPS dưới hai dạng. Thứ nhất, Hiệp định TRIPS đòi hỏi các thành viên WTO tuân thủ những quy định cơ bản và quan trọng của Công ước Pa-ri và Công ước Bec-nơ đã được chuyển tải vào Hiệp định TRIPS. Thứ hai, Hiệp định TRIPS quy định thêm một số nghĩa vụ cho các thành viên WTO mà những nghĩa vụ này không quy định trong Công ước Pa-ri và Công ước Bec-nơ.
Các thành viên WTO có nghĩa vụ tuân thủ và áp dụng các tiêu chuẩn bảo hộ do Hiệp định TRIPS thiết lập. Đối với những vấn đề Hiệp định TRIPS đã thiết lập tiêu chuẩn tổi thiểu, các thành viên không thể áp dụng tiêu chuẩn bảo hộ ở mức thấp hơn mức do Hiệp định TRIPS thiết lập. Đồng thời, các thành viên không có nghĩa vụ đưa ra mức bảo hộ cao hơn. ‘Thực tế là Hiệp định đã thiết lập cái mà các thành viên cho là nguyên tắc và tiêu chuẩn “thích hợp” trong lĩnh vực này. Hiệp định TRIPS không có quy chế đặc biệt nào dành cho các DCs và LDCs, trừ các quy định từ Điều 65 đến Điều 67 về giai đoạn chuyển đổi. 

Những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu được thiết lập trong Hiệp định TRIPS loại bỏ sự không đối xứng mà khoản 1 Điều 2 Công ước Pa-ri tạo ra khi quy định về nguyên tắc NT.  Cụ thể, theo khoản 1 Điều 2 Công ước Pa-ri, trong trường hợp Công ước Pa-ri không thiết lập các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, thì các nước thành viên của Liên minh được tự do dành sự bảo hộ cho công dân của các nước thành viên khác mà không dành cho công dân của nước mình. Sự tự do này làm phát sinh những khác biệt về mức độ bảo hộ giữa các nước thành viên của Liên minh, và đôi khi sự khác biệt được coi là không tương xứng. 

Thứ ba, Hiệp định TRIPS trao cho các thành viên WTO quyền tự quyết nhất định. Bên cạnh những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, Hiệp định TRIPS dành quyền tự quyết cho các thành viên trong một số lĩnh vực, nhằm giúp các thành viên thiết lập tiêu chuẩn quốc gia về bảo hộ IPRs theo chính sách của các thành viên này trên cơ sở các ‘quy định linh hoạt’ (‘flexible provisions’).

Theo giải thích của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (‘WIPO’), các ‘quy định linh hoạt’ là những cách thức khác nhau mà thông qua đó các nghĩa vụ do Hiệp định TRIPS thiết lập sẽ được chuyển tải vào pháp luật quốc gia sao cho phù hợp với lợi ích quốc gia, nhưng vẫn tương thích với các quy định và nguyên tắc của Hiệp định TRIPS.  Từ ‘linh hoạt’ được nhấn mạnh trong đoạn 6 Lời nói đầu của Hiệp định TRIPS và ý nghĩa của từ này được tìm thấy trong nhiều quy định của Hiệp định TRIPS. Những ‘quy định linh hoạt’ của Hiệp định TRIPS được chia thành bốn nhóm,  bao gồm: (i) Những quy định linh hoạt tại đoạn 6 Lời nói đầu về giai đoạn chuyển đổi; (ii) Những quy định linh hoạt tại khoản 1 Điều 1 về cách thức thi hành các nghĩa vụ trong Hiệp định TRIPS; (iii) Những quy định linh hoạt tại Điều 6, khoản 1 Điều 8, Điều 17, Điều 18, Điều 20, khoản 4 Điều 23, khoản 5 Điều 23, khoản 9 Điều 23, khoản 8 Điều 24, khoản 2 Điều 26, khoản 3 Điều 26, Điều 30, Điều 31, Điều 33, Điều 37, và Điều 38 về tiêu chuẩn bảo hộ; và (iv) Các quy định linh hoạt tại khoản 5 Điều 41 về vấn đề thực thi. 

Thứ tư, lần đầu tiên Hiệp định TRIPS thiết lập cơ chế thực thi IPRs hiệu quả. Một trong những khác biệt lớn nhất giữa Hiệp định TRIPS và các điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ được ban hành trước Hiệp định là: Hiệp định bao gồm các quy định chi tiết hơn nhằm đảm bảo thực thi những cam kết của Hiệp định. Những tranh chấp sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPS có thể được giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau như dân sự, hành chính, biện pháp tạm thời, biện pháp kiểm soát biên giới và biện pháp hình sự.  Những tranh chấp phát sinh thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPS được giải quyết theo thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO. Tức là, về nguyên tắc, các nguyên tắc của WTO được quy định trong GATT cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được áp dụng.

Với những đổi mới nêu trên, cho đến nay, Hiệp định TRIPS được đánh giá là thoả thuận đa phương về sở hữu trí tuệ toàn diện nhất.  Hiệp định là sự củng cố có ý nghĩa quan trọng nhất đối với những tiêu chuẩn toàn cầu trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. 

Hiệp định TRIPS: Mục tiêu cơ bản nhất là thúc đẩy thương mại quốc tế

Phù hợp với mục tiêu của WTO, mục tiêu của Hiệp định TRIPS là thúc đẩy thương mại quốc tế bằng cách bảo hộ IPRs, đồng thời ngăn chặn các thành viên sử dụng IPRs như những rào cản trong thương mại quốc tế. Theo Lời nói đầu của Hiệp định TRIPS:

... Một trong những hiểu lầm phổ biến nhất về Hiệp định TRIPS là mục tiêu chính của Hiệp định là đề cao bảo hộ IPRs. Tuy nhiên, điều này không đúng. Mục tiêu chính - nếu không phải là mục tiêu duy nhất - của Hiệp định TRIPS, cũng như mục tiêu của toàn bộ Hiệp định thành lập WTO, là thúc đẩy thương mại tự do.
Như đã nhấn mạnh trong Lời nói đầu của Hiệp định TRIPS, mục tiêu cơ bản đầu tiên của Hiệp định là: ‘Giảm sự bóp méo và rào cản trong thương mại quốc tế. và bảo đảm rằng các biện pháp và thủ tục thực thi IPRs không tự chúng tạo thành những rào cản cho thương mại hợp pháp’.

Mục tiêu này nên được đặt trong mối quan hệ với Điều 7 và Điều 8 của Hiệp định TRIPS. Theo đó, bảo hộ và thực thi IPRs phải góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, chuyển giao và phổ biến công nghệ, đem lại lợi ích chung cho người tạo ra và người sử dụng kiến thức công nghệ, đem lại lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế, tạo ra sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ (Điều 7). Các thành viên WTO được phép áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khoẻ cộng đồng cũng như những lợi ích công cộng khác, và được phép ngăn chặn lạm dụng IPRs hoặc những hành vi cản trở thương mại bất hợp lí hoặc ảnh hưởng xấu đến chuyển giao công nghệ quốc tế (Điều 8).

Ngoài Lời nói đầu, nhiều quy định của Hiệp định TRIPS cũng thể hiện mục tiêu thúc đẩy thương mại tự do. Ví dụ: Hiệp định TRIPS yêu cầu các thành viên WTO áp dụng các biện pháp thực thi ‘sao cho tránh tạo ra những rào cản cho thương mại hợp pháp’ theo quy định tại Điều 41. Điều 48, khoản 3 Điều 50, khoản 7 Điều 50 và Điều 56 là những ví dụ khác về các quy định nhằm ngăn chặn và xử lí việc lạm dụng các biện pháp thực thi của chủ thể nắm giữ quyền (hoặc người được cho là chủ thể nắm giữ quyền) có thể cản trở thương mại quốc tế hợp pháp. 

1.3- Các nguyên tắc của Hiệp định TRIPS

Tương tự như các hiệp định khác của WTO, như GATT và GATS, Hiệp định TRIPS có quy định về ba nguyên tắc cơ bản. Đó là nguyên tắc NT, nguyên tắc MFN, và nguyên tắc minh bạch. Các vấn đề liên quan đến khả năng đạt được, phạm vi, sử dụng và thực thi IPRs liên quan đến thương mại trong Hiệp định TRIPS là đối tượng của hai nguyên tắc đầu tiên. Nguyên tắc thứ ba nhằm duy trì tính công khai, ổn định, dự báo của pháp luật sở hữu trí tuệ.

Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT)

Nguyên tắc NT về sở hữu trí tuệ được quy định lần đầu tiên trong Công ước Pa-ri (Điều 2). Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này theo Công ước Pa-ri làm phát sinh những khác biệt về mức độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp giữa các nước thành viên của Liên minh và hệ quả là tạo ra những rào cản cho xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ mang đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ. Do đó, các nước thành viên ở Vòng đàm phán U-ru-goay đã nhất trí thiết lập một công thức mới cho nguyên tắc NT tại Điều 3 Hiệp định TRIPS.

Nguyên tắc NT trong Hiệp định TRIPS được Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) xem xét và giải thích kỹ lưỡng. Nguyên tắc này đã được làm rõ trong một số vụ sau đây: European Communities-Protection of Trademark and Geographical Indications for Agricultural Products and Foodstuffs do Hoa Kỳ khởi kiện; European Communities-Protection of Trademark and Geographical Indications for Agricultural Products and Foodstuffs do Úc khởi kiện; Indonesia-Autos; và US-Section 211 Appropriations Act (US-Havana Club).  Theo đó, không còn tồn tại sự bảo hộ mà một thành viên dành cho công dân của các thành viên khác không giống với sự bảo hộ dành cho công dân của mình (như quy định trong Công ước Pa-ri); Hiệp định TRIPS đòi hỏi mỗi thành viên WTO dành sự bảo hộ cho công dân các thành viên khác ‘không kém thuận lợi hơn’ sự bảo hộ dành cho công dân của mình. Nói cách khác, bất kể mức độ bảo hộ nào một thành viên dành cho công dân của mình, thành viên này buộc phải áp dụng tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu do Hiệp định TRIPS thiết lập cho công dân của các thành viên khác. Nếu mức độ bảo hộ của thành viên đó thấp hơn hoặc ngang bằng với mức độ bảo hộ do Hiệp định TRIPS thiết lập, thì thành viên đó có thể giới hạn mức độ bảo hộ cho công dân của các thành viên theo tiêu chuẩn bảo hộ của Hiệp định TRIPS. Nếu mức độ bảo hộ của thành viên đó cao hơn mức độ bảo hộ do Hiệp định TRIPS thiết lập, thì thành viên đó phải dành mức độ bảo hộ cao tương tự cho công dân của các thành viên khác. 

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN)

Nguyên tắc MFN được quy định tại Điều 4 Hiệp định TRIPS. Nguyên tắc này không được đề cập trong những điều ước về sở hữu trí tuệ được thiết lập trước Hiệp định TRIPS nhưng được quy định trong các hiệp định khác của WTO, như GATT (Điều I) và GATS (Điều II). Trong khi nguyên tắc NT cấm một thành viên phân biệt đối xử giữa công dân của mình và công dân của các thành viên khác, thì nguyên tắc MFN cấm một thành viên phân biệt đối xử giữa công dân của hai thành viên khác. Đối với bảo hộ IPRs, Điều 4 Hiệp định TRIPS đòi hòi các thành viên của WTO dành sự bảo hộ ‘ngay lập tức và vô điều kiện’, ‘ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc miễn trừ’ cho ‘công dân của bất kì nước nào khác’ (bao gồm cả công dân của nước không phải là thành viên của WTO) như sự bảo hộ dành cho công dân của mình. Nguyên tắc MFN được làm rõ trong một số vụ sau đây: European Communities- Protection of Trademark and Geographical Indications for Agricultural Products and Foodstuffs (khiếu kiện của Hoa Kỳ); và US-Section 211 Appropriations Act (US-Havana Club). 

Nguyên tắc minh bạch

Nguyên tắc minh bạch được biết đến lần đầu tiên trong Điều X GATT 1947. Trong Hiệp định TRIPS, nguyên tắc này được quy định tại Điều 63. Điều 63 yêu cầu các thành viên của WTO công bố các nguyên tắc liên quan đến IPRs. Theo khoản 1 Điều 63, các nguyên tắc liên quan đến IPRs bao gồm các luật, quy định, quyết định xét xử cuối cùng, quyết định hành chính, thoả thuận giữa chính phủ của thành viên hoặc cơ quan chính phủ với chính phủ hoặc cơ quan chính phủ của thành viên khác. Nghĩa vụ công bố này được thực hiện thông qua ba phương thức, đó là: (i) Công bố chính thức (khoản 1 Điều 63); (ii) Thông báo cho Hội đồng TRIPS (khoản 2 Điều 63); và (iii) Yêu cầu thành viên khác cung cấp thông tin và cho phép tiếp cận thông tin (khoản 3 Điều 63). Mục đích của nguyên tắc minh bạch là: ‘Giúp cho chính phủ và các chủ thể khác được thông báo về khả năng thay đổi của pháp luật sở hữu trí tuệ của thành viên nhằm góp phần đảm bảo môi trường pháp lí ổn định và có thể dự đoán được’. 

Cần lưu ý rằng Hiệp định TRIPS cũng quy định một số ngoại lệ đối với ba nguyên tắc nêu trên. Ngoại lệ đối với nguyên tắc NT được quy định tại khoản 2 Điều 3; ngoại lệ đối với nguyên tắc MFN được quy định tại Điều 4(a), (b), (c), (d); ngoại lệ đối với nguyên tắc minh bạch được quy định tại khoản 4 Điều 63. 

2- Nội dung chính của Hiệp định TRIPS

Bên cạnh những quy định chung và những nguyên tắc cơ bản (quy định tại Phần I Hiệp định TRIPS),  Hiệp định TRIPS bao gồm những nội dung chính sau đây: (A) Các tiêu chuẩn liên quan đến khả năng đạt được, phạm vi và sử dụng IPRs đối với bảy đối tượng sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lí, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế (bao gồm giống cây trồng), thiết kế bố trí mạch tích hợp và thông tin bí mật; (B) Hiệp định TRIPS bao gồm những quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs; (C) Hiệp định TRIPS quy định chi tiết về thực thi IPRs; (D) Quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. 

2.1- Các tiêu chuẩn liên quan đến khả năng đạt được, phạm vi và sử dụng IPRs

Quyền tác giả và quyền liên quan

(a) Quyền tác giả

Hiệp định TRIPS khẳng định phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm sự thể hiện và không bao gồm các ý tưởng, trình tự, phương pháp tính toán hoặc các khái niệm toán học (khoản 2 Điều 9). Các chương trình máy tính, dù dưới dạng mã nguồn hay mã máy, đều phải được bảo hộ quyền tác giả như những tác phẩm văn học (khoản 1 Điều 10). Các cơ sở dữ liệu, bộ sưu tập dữ liệu hoặc tư liệu khác đều phải được bảo hộ quyền tác giả thậm chí cả cơ sở dữ liệu chứa đựng dữ liệu không được bảo hộ quyền tác giả (khoản 2 Điều 10).

Ít nhất là đối với chương trình máy tính và tác phẩm điện ảnh, các thành viên phải dành cho tác giả và người thừa kế hợp pháp của họ quyền cho phép hoặc cấm việc cho công chúng thuê bản gốc hoặc bản sao các tác phẩm của họ nhằm mục đích thương mại (Điều 11).

Theo quy định tại Điều 12, nếu thời hạn bảo hộ tác phẩm (trừ tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng dụng) không được tính theo đời người, thì thời hạn đó không được dưới 50 năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, hoặc 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được tạo ra nếu tác phẩm không được công bố một cách hợp pháp trong vòng 50 năm từ ngày tạo ra tác phẩm. Hiệp định TRIPS yêu cầu các thành viên WTO giới hạn những hạn chế và ngoại lệ đối với các độc quyền trong những trường hợp đặc biệt nhất định, nhưng với điều kiện không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không làm tổn hại một cách bất hợp lí đến lợi ích hợp pháp của chủ thể nắm giữ quyền (Điều 13). Trong vụ US-Section 110(5) Copyright Act,  Ban hội thẩm đã giải thích Điều 13 Hiệp định TRIPS, cụ thể về các nội dung: phạm vi,  mối quan hệ với các quy định khác  và điều kiện áp dụng. 

(b) Quyền liên quan đến quyền tác giả

Hiệp định TRIPS bao gồm những quy định về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát thanh, truyền hình. Theo Hiệp định, người biểu diễn có quyền ngăn cấm ghi thu, lưu định cuộc biểu diễn bằng phương tiện ghi âm. Quyền ghi thu, lưu định của người biểu diễn chỉ liên quan đến âm thanh chứ không liên quan đến cả âm thanh và hình ảnh. Người biểu diễn còn có quyền ngăn cấm tái tạo, nhân bản bản ghi âm. Người biểu diễn cũng có quyền ngăn cấm phát qua phương tiện vô tuyến và truyền cho công chúng buổi biểu diễn trực tiếp của họ (khoản 1 Điều 14). Hiệp định TRIPS yêu cầu các thành viên WTO cho phép nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền sao chép các bản ghi âm của họ (khoản 2 Điều 14). Thêm vào đó, theo khoản 4 Điều 14, nhà sản xuất bản ghi âm còn có độc quyền cho thuê bản ghi âm. Các tổ chức phát thanh, truyền hình phải có quyền ngăn cấm các hành vi sau đây nếu thực hiện mà không được họ cho phép: ghi, sao chép bản ghi, phát lại qua phương tiện vô tuyến chương trình, cũng như truyền hình cho công chúng các chương trình (khoản 2 Điều 14).

Thời hạn bảo hộ người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm ít nhất là 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà việc ghi âm hoặc buổi biểu diễn được tiến hành, và thời hạn bảo hộ tổ chức phát sóng ít nhất là 20 năm tính khi kết thúc năm dương lịch mà chương trình phát thanh, truyền hình được thực hiện (khoản 5 Điều 14). Hiệp định TRIPS cho phép các thành viên WTO quy định về các điều kiện, hạn chế, ngoại lệ và bảo lưu đối với những quyền được quy định cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát thanh, truyền hình trong phạm vi quy định của Công ước Rô-ma (khoản 6 Điều 14).

Nhãn hiệu

Hiệp định TRIPS quy định rất rộng về phạm vi các dấu hiệu có khả năng được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu, đó là bất kì một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu, bao gồm dấu hiệu nhìn thấy được (như các chữ cái, các chữ số, các yếu tố hình họa) và dấu hiệu không nhìn thấy được (như âm thanh, mùi, vị) có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể được đăng kí làm nhãn hiệu (khoản 1 Điều 15). Các thành viên WTO có thể quy định khả năng được đăng kí phụ thuộc vào ‘tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng’ khi bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ tương ứng.

Chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng kí có độc quyền ngăn cấm những người khác, nếu không có sự đồng ý của mình, sử dụng trong hoạt động kinh doanh các dấu hiệu trùng hoặc tương tự cho hàng hoá hoặc dịch vụ trùng hoặc tương tự với những hàng hoá hoặc dịch vụ được đăng kí kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng như vậy có nguy cơ gây nhầm lẫn. Khoản 1 Điều 16 Hiệp định TRIPS quy định: ‘Việc sử dụng cùng một dấu hiệu cho cùng một loại hàng hoá hoặc dịch vụ phải bị coi là có nguy cơ gây nhầm lẫn’.

Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại khoản 2 Điều 16 và khoản 3 Điều 16 Hiệp định TRIPS. Những quy định này của Hiệp định TRIPS cung cấp sự bảo hộ bổ sung cho nhãn hiệu nổi tiếng đã được quy định tại Điều 6bis Công ước Pa-ri. Trước hết, Hiệp định TRIPS khẳng định rằng ‘Điều 6bis Công ước Pa-ri (1967) phải được áp dụng, với những sửa đổi thích hợp, đối với các dịch vụ’. Để xác định nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, không chỉ phải xem xét danh tiếng của nhãn hiệu đó trong bộ phận công chúng có liên quan thông qua sử dụng nhãn hiệu, mà còn thông qua hoạt động quảng cáo nhãn hiệu. Hơn nữa, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng mở rộng đối với hàng hoá hoặc dịch vụ không tương tự với những hàng hoá hoặc dịch vụ được đăng kí kèm theo nhãn hiệu nổi tiếng, với điều kiện việc sử dụng nhãn hiệu đó thể hiện mối liên hệ giữa hàng hoá hoặc dịch vụ này với chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng kí và lợi ích của chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng kí có nguy cơ bị tổn hại do việc sử dụng nhãn hiệu.

Theo quy định tại Điều 17, các thành viên WTO có thể quy định một số ngoại lệ đối với các quyền đã quy định cho chủ sở hữu nhãn hiệu, ví dụ, sử dụng lành mạnh các thuật ngữ mang tính chất mô tả, với điều kiện những ngoại lệ đó không ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu và của bên thứ ba. Thời hạn bảo hộ nhãn hiệu cho lần đầu đăng kí và mỗi lần gia hạn ít nhất là 7 năm. Số lần gia hạn hiệu lực đăng kí nhãn hiệu không bị giới hạn (Điều 18).

Về yêu cầu sử dụng nhãn hiệu, Hiệp định TRIPS quy định như sau: chỉ được hủy bỏ một nhãn hiệu trên cơ sở không sử dụng, nếu việc không sử dụng diễn ra ít nhất ba năm liên tục, trừ trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra những lí do chính đáng cản trở việc sử dụng nhãn hiệu. Các trường hợp không sử dụng nhãn hiệu không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nhãn hiệu, ví dụ, việc hạn chế nhập khẩu hoặc những hạn chế khác của chính phủ, được coi là lí do chính đáng cho việc không sử dụng nhãn hiệu. Việc người khác sử dụng nhãn hiệu dưới sự kiểm soát của chủ sở hữu nhãn hiệu phải được công nhận là sử dụng nhãn hiệu nhằm duy trì hiệu lực đăng kí nhãn hiệu (Điều 19).

Chỉ dẫn địa lí

Định nghĩa chỉ dẫn địa lí được đưa ra tại khoản 1 Điều 22 Hiệp định TRIPS. Theo đó, ‘chỉ dẫn địa lí là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lí quyết định’.

Hiệp định yêu cầu các thành viên WTO cung cấp các phương tiện pháp lí để ngăn chặn việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn cho công chúng về nguồn gốc địa lí của hàng hoá và việc sử dụng đó cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo nghĩa của Điều 10bis Công ước Pa-ri (khoản 2 Điều 22).

Mối quan hệ giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lí được đề cập tại khoản 3 Điều 22. Cụ thể, phải từ chối đăng kí nhãn hiệu hoặc hủy bỏ hiệu lực của nhãn hiệu đã đăng kí theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của các bên liên quan, nếu nhãn hiệu sử dụng chỉ dẫn địa lí gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ thực của hàng hoá.

Cần lưu ý rằng Hiệp định TRIPS cung cấp sự bảo hộ đặc biệt đối với các chỉ dẫn địa lí dùng cho rượu vang và rượu mạnh (Điều 23). Theo đó, các thành viên WTO phải cung cấp những biện pháp pháp lí để ngăn ngừa việc sử dụng một chỉ dẫn địa lí của rượu vang cho những loại rượu vang không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lí đó. Quy định này cũng được áp dụng trong trường hợp công chúng không nhầm lẫn, không cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh và nguồn gốc thực sự của hàng hoá được chỉ ra hoặc chỉ dẫn địa lí được sử dụng gắn với các từ như ‘loại’, ‘kiểu’, ‘dạng’, ‘phỏng theo’ hoặc tương tự như vậy. Việc bảo hộ tương tự được áp dụng cho rượu mạnh và cho nhãn hiệu. Các trường hợp ngoại lệ đối với bảo hộ chỉ dẫn địa lí được quy định tại Điều 24.

Kiểu dáng công nghiệp

Hiệp định TRIPS yêu cầu các thành viên WTO bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp mới hoặc nguyên gốc được tạo ra một cách độc lập và sự bảo hộ đó không áp dụng cho những kiểu dáng công nghiệp chủ yếu do đặc tính kĩ thuật và chức năng quyết định (khoản 1 Điều 25).

Xuất phát từ mối liên hệ không thể phủ nhận giữa kiểu dáng công nghiệp và ngành công nghiệp dệt, thời gian tồn tại ngắn của những kiểu dáng mới trong lĩnh vực dệt, Hiệp định TRIPS bao gồm một quy định riêng về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cho hàng dệt. Khoản 2 Điều 25 Hiệp định TRIPS quy định:

Bảo hộ đối với các kiểu dáng hàng dệt, đặc biệt là yêu cầu về lệ phí, xét nghiệm hoặc công bố, không làm giảm một cách bất hợp lí cơ hội tìm kiếm và đạt được sự bảo hộ đó. Các thành viên được tự do lựa chọn áp dụng pháp luật kiểu dáng công nghiệp hoặc pháp luật về quyền tác giả để thực hiện nghĩa vụ này.

Khoản 1 Điều 26 yêu cầu các thành viên WTO trao cho chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp quyền ngăn cấm những người không được sự đồng ý của mình sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc thể hiện một kiểu dáng là bản sao, hoặc về cơ bản là bản sao, của kiểu dáng đã được bảo hộ, nếu các hành vi này nhằm mục đích thương mại. Các thành viên được phép quy định các ngoại lệ đối với việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, với điều kiện các ngoại lệ đó không mâu thuẫn bất hợp lí với việc khai thác bình thường kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ, và không làm tổn hại một cách bất hợp lí lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ, và trong trường hợp này cần xem xét cả lợi ích của các bên thứ ba (khoản 2 Điều 26). Thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp tối thiểu là 10 năm (khoản 3 Điều 26).

Sáng chế

Hiệp định TRIPS đòi hỏi các thành viên bảo hộ sáng chế cho sản phẩm hoặc quy trình thuộc mọi lĩnh vực công nghệ với điều kiện sản phẩm hoặc quy trình có tính mới, có trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp (khoản 1 Điều 27). Có thể loại trừ không cấp bằng độc quyền sáng chế trong ba trường hợp. Thứ nhất, đối với những sáng chế trái ngược với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội; bao gồm những sáng chế gây nguy hiểm cho sức khoẻ của con người và động vật hoặc thực vật hoặc để tránh gây nguy hại nghiêm trọng cho môi trường (khoản 2 Điều 27). Thứ hai, các thành viên có thể không cấp bằng độc quyền sáng chế cho các phương pháp chẩn đoán bệnh, các phương pháp nội và ngoại khoa để chữa bệnh cho người và động vật (khoản 3(a) Điều 27). Thứ ba, các thành viên có thể không cấp bằng độc quyền sáng chế cho thực vật và động vật, chủ yếu mang tính chất sinh học và không phải là các quy trình phi sinh học hoặc vi sinh. Tuy nhiên, bất kì thành viên nào không bảo hộ giống cây trồng theo hệ thống sáng chế đều phải quy định hệ thống bảo hộ riêng hữu hiệu đối với giống cây trồng (khoản 3(b) Điều 27).

Chủ sở hữu sáng chế có quyền sản xuất, sử dụng, chào hàng, bán sản phẩm và nhập khẩu sản phẩm để thực hiện những mục đích nêu trên. Nếu sáng chế là một quy trình, chủ sở hữu sáng chế không chỉ có quyền đối với quy trình mà còn có quyền đối với sản phẩm tạo ra trực tiếp bằng quy trình đó. Chủ sở hữu sáng chế cũng có quyền chuyển nhượng, để lại thừa kế quyền đối với sáng chế và giao kết các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (Điều 28). Các thành viên WTO có thể quy định những ngoại lệ đối với các quyền nêu trên, với điều kiện những ngoại lệ đó không mâu thuẫn bất hợp lí với việc khai thác bình thường sáng chế và không gây tổn hại bất hợp lí đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu sáng chế và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba (Điều 30). Trong vụ Canada-Pharmaceutical Patents,  Ban hội thẩm đã làm rõ các quyền của chủ sở hữu sáng chế được quy định tại Điều 28 và những ngoại lệ đối với các quyền này được quy định tại Điều 30.

Thời hạn bảo hộ sáng chế không được ngắn hơn 20 năm tính từ ngày nộp đơn (Điều 33). Trong vụ Canada-Term of Patent Protection,  Cơ quan phúc thẩm kết luận rằng: thời hạn bảo hộ sáng chế là 17 năm (tính từ ngày cấp văn bằng bảo hộ) cho những đơn đăng kí sáng chế được nộp trước ngày 1/10/1989 và thường kết thúc trước 20 năm tính từ ngày nộp đơn theo quy định tại Phần 45 Đạo luật sáng chế Ca-na-đa là không phù hợp với quy định tại Điều 33 Hiệp định TRIPS.

Pháp luật quốc gia được phép quy định về việc bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (li-xăng bắt buộc), hoặc sử dụng sáng chế do chính phủ thực hiện mà không được phép của chủ thể nắm giữ quyền được thừa nhận, nhưng với những điều kiện nhất định nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ thể nắm giữ quyền (Điều 31). Điều kiện áp dụng bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế được giảm nhẹ nhằm xử lí các hành vi hạn chế cạnh tranh. Các điều kiện áp dụng này phải được xem xét trong mối quan hệ với các quy định liên quan tại khoản 1 Điều 27 Hiệp định TRIPS.

Thiết kế bố trí mạch tích hợp

Theo Hiệp định TRIPS, việc bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp dựa trên các quy định của Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp (Điều 35) và một số quy định bổ sung của Hiệp định TRIPS (từ Điều 36 đến Điều 38). Trong đó, Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp bao gồm định nghĩa ‘mạch tích hợp’ và ‘thiết kế bố trí’, các điều kiện bảo hộ, các độc quyền, những giới hạn và khai thác, đăng kí, mở thiết kế bố trí mạch tích hợp.  Các quy định về thiết kế bố trí mạch tích hợp trong Hiệp định TRIPS bổ sung ba vấn đề quan trọng đáng kể cho Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp. Đó là: (i) Khả năng bảo hộ sản phẩm chứa thiết kế bố trí bất hợp pháp (Điều 36); (ii) Xử lí người vi phạm không có lỗi - đó là việc người thực hiện hành vi nhập khẩu, bán hoặc phân phối mạch tích hợp chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp pháp, hoặc bất kì sản phẩm nào chứa mạch hợp như vậy, dưới hình thức khác, nhằm mục đích thương mại, nếu tại thời điểm tiếp nhận mạch tích hợp hoặc sản phẩm chứa mạch tích hợp đó mà không biết, hoặc không có căn cứ hợp lí để biết rằng trong đó chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp pháp (khoản 1 Điều 37); và (iii) Áp dụng các quy định tại Điều 31 Hiệp định TRIPS đối với chuyển giao không tự nguyện quyền sử dụng thiết kế bố trí, hoặc sử dụng thiết kế bố trí do chính phủ thực hiện mà không được phép của chủ thể nắm giữ quyền, thay cho các quy định về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng thiết kế bố trí (li-xăng bắt buộc) trong Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp (khoản 2 Điều 37).

Thông tin bí mật

Khác với 6 đối tượng sở hữu trí tuệ đã đề cập ở trên, Hiệp định TRIPS chỉ rõ rằng việc bảo hộ thông tin bí mật nhằm bảo đảm ‘chống cạnh tranh không lành mạnh một cách hiệu quả’ (khoản 1 Điều 39). Bên cạnh đó, Hiệp định bao gồm định nghĩa ‘thông tin bí mật’ tại khoản 2 Điều 39. Theo quy định này, thông tin này phải có tính chất bí mật, có giá trị thương mại vì có tính chất bí mật, được giữ bí mật bằng các biện pháp hợp lí. Hiệp định TRIPS cũng quy định về dữ liệu thử nghiệm và các dữ liệu bí mật khác trong trường hợp phải nộp dữ liệu theo yêu cầu của chính phủ để được phép tiếp thị dược phẩm hoặc các sản phẩm hoá nông có chứa những thành phần hoá học mới (khoản 3 Điều 39). Trong trường hợp như vậy, các thành viên WTO phải bảo hộ để các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh và không bị tiết lộ, trừ trường hợp cần bảo vệ công chúng hoặc trừ khi áp dụng các biện pháp nhằm bảo đảm các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh.

2.2- Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs

Hiệp định TRIPS bao gồm một số quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs, cụ thể là khoản 2 Điều 8, Điều 31(k) và Điều 40.  Vấn đề thoả thuận giới hạn trong hợp đồng liên quan đến IPRs chỉ được hiểu thông qua quy định tại khoản 2 Điều 8 và Điều 40.  Theo những quy định này, sự lạm dụng IPRs và những hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs có thể hạn chế cạnh tranh, do đó một mặt Hiệp định TRIPS dành quyền cho các thành viên WTO điều chỉnh các hành vi này, mặt khác yêu cầu các thành viên WTO tuân thủ những nghĩa vụ nhất định.

Những quy định linh hoạt

Các quy định linh hoạt, được quy định tại khoản 2 Điều 8 và khoản 2 Điều 40 Hiệp định TRIPS, cho phép các thành viên áp dụng ‘các biện pháp thích hợp’ để ngăn chặn, xử lí những hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs. Với quy định tại khoản 2 Điều 8, các thành viên thừa nhận rằng: những hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs ‘có thể cần... phải được ngăn ngừa’, và các thành viên được trao quyền xử lí những hành vi này. Cụm từ ‘có thể cần’ thừa nhận thẩm quyền của các thành viên đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs. Những hành vi này bao gồm lạm dụng IPRs bởi những người nắm giữ quyền, cản trở hoạt động thương mại một cách bất hợp pháp, gây ảnh hưởng xấu đến chuyển giao công nghệ quốc tế.

Quyền kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh phát sinh từ hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ được quy định tại Điều 40. Điều 40 bao gồm bốn khoản, trong đó các khoản 1 và 2 quy định về nội dung, còn các khoản 3 và 4 quy định về các vấn đề thực thi. Điều 40 là quy định ‘đặc biệt’ trong mối quan hệ với khoản 2 Điều 8, theo đó Điều 40 nêu giới hạn phạm vi của khoản 2 Điều 8 và chỉ liên quan đến một số hành vi của chủ thể nắm giữ IPRs được liệt kê tại khoản 2 Điều 8.  Điều 40 thuộc Mục 8 của Hiệp định TRIPS và mục này có tiêu đề ‘Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ’. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 40 đề cập thuật ngữ chung ‘một số hoạt động hoặc điều kiện chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ’ bao hàm tất cả các hành vi xoanh quanh việc xác lập và thực hiện hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ. Do đó, hành vi đơn phương và các điều khoản hợp đồng mang tính giới hạn liên quan đến IPRs đều thuộc phạm vi điều chỉnh của khoản 1 Điều 40. Khoản 1 Điều 40 thừa nhận rằng: ‘Một số hoạt động hoặc điều kiện chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ liên quan đến IPRs có tính chất hạn chế cạnh tranh có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động thương mại và có thể cản trở việc chuyển giao và phổ biến công nghệ’.

Do đó, khoản 1 Điều 40 cũng ‘nước đôi’ như khoản 2 Điều 8.

Trong khi khoản 1 Điều 40 không liệt kê những hoạt động hoặc điều kiện chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ bị coi là hạn chế cạnh tranh, khoản 2 Điều 40 liệt kê một số hoạt động này như ‘điều kiện chuyển giao IPRs dưới hình thức độc quyền, điều kiện ngăn cấm việc không thừa nhận hiệu lực và việc chuyển giao quyền sử dụng trọn gói’. Tuy nhiên, từ ‘chẳng hạn’ cho thấy đây không phải là danh mục được liệt kê đầy đủ.

Điều này cho phép các thành viên WTO định nghĩa ‘điều kiện và hoạt động chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ’. Hơn nữa, khoản 2 Điều 40 nhấn mạnh việc cho phép các thành viên WTO thiết lập và xác định nội dung pháp luật cạnh tranh nhằm khống chế hoặc ngăn chặn điều kiện và hoạt động chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ bị coi là hạn chế cạnh tranh. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 40 ghi nhận thẩm quyền của các thành viên được ‘áp dụng các biện pháp thích hợp để ngăn ngừa, khống chế’ những hoạt động đó, đồng thời đòi hỏi các thành viên tuân thủ những nghĩa vụ tối thiểu nhất định.

Tóm lại, khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 40 và khoản 2 Điều 40 cho phép các thành viên WTO được tự do trong việc xử lí những hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs. Cụ thể, các thành viên có quyền xử lí những hành vi đó; định nghĩa hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs, và điều kiện hoặc hoạt động chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ; thiết lập và xác định nội dung của pháp luật cạnh tranh nhằm khống chế hoặc ngăn chặn những hành vi nêu trên.

Những tiêu chuẩn tối thiểu

Bên cạnh những quy định linh hoạt về hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs, khoản 2 Điều 8 và khoản 2 Điều 40 Hiệp định TRIPS quy định những tiêu chuẩn tối thiểu cho các biện pháp ngăn chặn hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs. Cụ thể, các thành viên có quyền quyết định điều chỉnh hay không điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs bằng pháp luật cạnh tranh của nước mình. Nếu các thành viên điều chỉnh hành vi này, thì pháp luật cạnh tranh của nước này phải phù hợp với các quy định khác của Hiệp định TRIPS và thích hợp để ngăn chặn những hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs. Nói cách khác, những biện pháp này phải đáp ứng hai điều kiện là sự ‘phù hợp’ và ‘thích hợp’. Hơn nữa, các khoản 3 và 4 Điều 40 yêu cầu các thành viên WTO có nghĩa vụ thương lượng và hợp tác trong kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs. Thứ nhất, khoản 2 Điều 8 và khoản 2 Điều 40 yêu cầu các biện pháp kiểm soát hoặc ngăn chặn hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến IPRs phải ‘phù hợp’ với các quy định khác của Hiệp định TRIPS. Thứ hai, khoản 2 Điều 8 và khoản 2 Điều 40 yêu cầu các biện pháp này phải ‘thích hợp’ và ‘cần thiết’. Yêu cầu về sự ‘thích hợp’ được giải thích trong một số văn bản của WTO  và được WTO giải thích chi tiết hơn trong một số án lệ liên quan đến GATT/GATS. Ví dụ: các vụ Korea-Measures Affecting Import of Fresh; Chilled and Frozen Beef; European Communities-Measures Affecting Asbestos-containing Products; European Communities-Trade Description of Sardines; Japan-Measures Affecting the Importation of Apples; United States-Measures Affecting the Cross-Border Supply of Gambling and Betting Services; European Communities- Measures Affecting the Approval and Marketing of Biotech Products.  Thứ ba, các khoản 3 và 4 Điều 40 thiết lập nghĩa vụ thương lượng và hợp tác trong kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ. Đây là thoả thuận quốc tế đa phương đầu tiên thiết lập nghĩa vụ hợp tác trong thực thi pháp luật chống độc quyền. 

2.3- Thực thi IPRs

Các nghĩa vụ chung

Theo yêu cầu của Hiệp định TRIPS, pháp luật quốc gia của các thành viên WTO phải quy định các thủ tục thực thi, cho phép hành động một cách có hiệu quả chống lại hành vi xâm phạm IPRs được đề cập trong Hiệp định, trong đó bao gồm các chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và các chế tài nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm tiếp theo. Các thủ tục thực thi phải được áp dụng theo cách thức nhằm tránh tạo ra những rào cản cho hoạt động thương mại hợp pháp và nhằm quy định những biện pháp chống lạm dụng các thủ tục thực thi (khoản 1 Điều 41). Hơn nữa, các thủ tục thực thi phải đúng đắn và công bằng, không phức tạp và tốn kém một cách không cần thiết, không bao gồm những thời hạn bất hợp lí hoặc những trì hoãn không có lí do chính đáng (khoản 2 Điều 41). Trong vụ Canada-The term of Patent Protection,  Ban hội thẩm chỉ ra rằng:
Những chậm trễ mà người nộp đơn phải gánh chịu do sự không sát sao của người nộp đơn, do sắp đặt lại thủ tục, do không thanh toán phí và không phúc đáp thông báo của xét nghiệm viên sáng chế bị coi là không phù hợp với nguyên tắc chung rằng thủ tục thực thi không được phức tạp một cách không cần thiết như quy định nhấn mạnh tại khoản 2 Điều 41. 

Các quyết định xử lí vụ việc cần phải được: thể hiện bằng văn bản và nêu rõ lí do; ít nhất phải được trao cho các bên tham gia khiếu kiện mà không được chậm trễ quá mức; phải dựa vào chứng cứ mà các bên đã có cơ hội trình bày (khoản 3 Điều 41). Các bên tham gia khiếu kiện phải có cơ hội yêu cầu cơ quan tư pháp xem xét lại các quyết định hành chính cuối cùng và ít nhất là các khía cạnh pháp lí của các quyết định xét xử vụ việc ở cấp sơ thẩm. Quy định này không áp dụng cho những tuyên bố vô tội trong các vụ án hình sự (khoản 4 Điều 41).

Các chế tài, thủ tục dân sự và hành chính

Hiệp định TRIPS bao gồm những quy định chi tiết về thực thi IPRs bằng biện pháp dân sự và hành chính. Những quy định này tập trung vào các vấn đề sau đây: (i) Yêu cầu thủ tục thực thi phải đúng đắn và công bằng (Điều 42);  (ii) Chứng cứ (Điều 43) ; (iii) Lệnh của toà án (Điều 44); (iv) Bồi thường thiệt hại (Điều 45); (v) Các biện pháp chế tài khác, ví dụ: cơ quan có thẩm quyền ra lệnh tiêu hủy hàng hoá vi phạm hoặc các vật liệu và phương tiện được sử dụng để tạo ra hàng hoá vi phạm (Điều 46); (vi) Quyền được thông tin (Điều 47); (vii) Bồi thường cho bị đơn (Điều 48); và (viii) Áp dụng những hướng dẫn nêu trên trong thực thi IPRs bằng biện pháp hành chính (Điều 49).

Các biện pháp tạm thời

Các biện pháp tạm thời được áp dụng nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm IPRs, đặc biệt nhằm ngăn chặn hàng hoá vào các kênh thương mại, trong đó bao gồm hàng hoá nhập khẩu ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan và nhằm lưu giữ các chứng cứ liên quan đến hành vi bị khiếu kiện là xâm phạm quyền (khoản 1 Điều 50). Các biện pháp tạm thời cũng được áp dụng, ‘khi mà bất kì sự chậm trễ nào cũng có thể tạo nguy cơ gây hậu quả không khắc phục được cho chủ thể nắm giữ quyền, hoặc khi thấy rằng chứng cứ đang có nguy cơ bị tiêu hủy’ (khoản 2 Điều 50). Cơ quan xét xử và cơ quan hành chính có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm thời.

Nhằm chống lại sự lạm dụng các biện pháp tạm thời, Hiệp định TRIPS quy định cơ quan xét xử có thể yêu cầu nguyên đơn: (i) Cung cấp bất kì chứng cứ nào có thể có được một cách hợp lí, đủ sức thuyết phục rằng nguyên đơn là chủ thể quyền, và quyền của nguyên đơn đang bị xâm phạm hoặc rõ ràng có nguy cơ bị xâm phạm (khoản 3 Điều 50); và (ii) Buộc nguyên đơn nộp một khoản bảo đảm hoặc bảo hiểm tương đương đủ để bảo vệ bị đơn và ngăn chặn sự lạm dụng (khoản 3 Điều 50). Bên cạnh đó, trong một thời hạn hợp lí, bị đơn có quyền yêu cầu xem xét lại lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời để quyết định những biện pháp này có phải sửa đổi, hủy bỏ hay nên giữ nguyên (khoản 4 Điều 50).

Những yêu cầu đặc biệt liên quan đến các biện pháp kiểm soát biên giới

Các biện pháp kiểm soát biên giới được quy định nhằm xử lí hàng hoá giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hoá sao chép lậu (Điều 51). Các biện pháp này cho phép cơ quan hải quan ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hoá sao chép lậu được đưa vào lưu thông tự do. Theo quy định tại Điều 60, các thành viên có thể không áp dụng quy định này trong trường hợp nhập khẩu với số lượng nhỏ và không có mục đích thương mại, ví dụ, hàng hoá trong hành lí cá nhân của hành khách hoặc hàng hoá nhỏ được kí gửi.

Hiệp định TRIPS dành quyền tự quyết cho các thành viên WTO trong áp dụng các thủ tục tương ứng đối với những hàng hoá xâm phạm được tập kết để xuất khẩu ra khỏi lãnh thổ của mình (Điều 51).

Tương tự như đối với các biện pháp tạm thời, Hiệp định TRIPS đưa ra một số quy định nhằm ngăn chặn lạm dụng các biện pháp kiểm soát biên giới. Cụ thể, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu nguyên đơn nộp khoản bảo đảm hoặc bảo hiểm tương đương đủ để bảo vệ bị đơn và các cơ quan có thẩm quyền, đồng thời ngăn chặn sự lạm dụng. Người nhập khẩu và nguyên đơn phải được thông báo ngay về việc đình chỉ thông quan đối với hàng hoá (Điều 54). Nếu chủ thể nắm giữ quyền thất bại trong việc đề xướng các thủ tục ra quyết định giải quyết vụ việc trong thời hạn 10 ngày làm việc, thì thông thường hàng hoá sẽ phải được thông quan (Điều 55). Trong trường hợp hàng hoá được cho là vi phạm liên quan đến kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí hoặc thông tin bí mật, hàng hoá sẽ được thông quan nếu người nhập khẩu nộp khoản bảo đảm đủ bảo vệ chủ thể nắm giữ quyền đối với bất kì xâm phạm nào, thậm chí khi các thủ tục ra quyết định giải quyết vụ việc đã được tiến hành (khoản 2 Điều 53).

Về chế tài, cơ quan có thẩm quyền có quyền ra lệnh tiêu hủy hàng hoá vi phạm hoặc đưa những hàng hoá này ra khỏi các kênh thương mại theo cách thức không gây tổn hại tới các quyền khiếu kiện của chủ thể nắm giữ quyền (Điều 59).

Các biện pháp hình sự

Hiệp định TRIPS yêu cầu các thành viên quy định các biện pháp hình sự và hình phạt được áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố ý giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu với quy mô thương mại. Các thành viên cũng phải quy định các chế tài như phạt tù, phạt tiền, tịch thu, trưng thu, tiêu hủy hàng hoá vi phạm và bất kì vật liệu, phương tiện nào được sử dụng chủ yếu để thực hiện hành vi phạm tội (Điều 61).

2.4- Giải quyết tranh chấp

Giải quyết các tranh chấp liên quan đến IPRs theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một trong những nội dung quan trọng nhất của Hiệp định TRIPS.

Khoản 2 Điều 3 Hiệp định của WTO về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (viết tắt là ‘DSU’) ghi nhận:

Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là yếu tố chính trong việc cung cấp sự an toàn và tính có thể dự đoán cho hệ thống thương mại đa phương... bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của các thành viên được quy định trong các hiệp định, và giải thích các quy định hiện hành trong những hiệp định này, phù hợp với các quy tắc tập quán về giải thích pháp luật của công pháp quốc tế. 

Hoạt động của hệ thống giải quyết tranh chấp liên quan đến Ban hội thẩm, Co quan phúc thẩm, Ban thư kí WTO, các trọng tài viên, các chuyên gia độc lập và một số bộ phận chuyên trách.

Hiệp định TRIPS viện dẫn các quy định của Điều XXII và Điều XXIII GATT 1994 - đã được chi tiết hoá trong DSU - để áp dụng đối với việc thưong lượng và giải quyết tranh chấp theo Hiệp định TRIPS (Điều 64). Kết quả là, các tranh chấp IPRs trong khuôn khổ Hiệp định TRIPS được giải quyết theo co chế giải quyết tranh chấp của WTO.

Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).

0 bình luận, đánh giá về Quyền sở hữu trí tuệ và hiệp định TRIPS

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
2.49252 sec| 1175.695 kb