Việt nam hội nhập kinh tế khu vực
Nội dung bài viết
- 1- Việt Nam hội nhập ASEAN
- 1.1- Việt Nam tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (‘AFTA’) và Hiệp định về Chương trình thuế quan ưu đãi hiệu lực chung (‘CEPT’)
- 1.2- Việt Nam tham gia xây dựng và phát triển Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
- 1.3- Việt Nam tham gia chương trình loại bỏ các biện pháp phi thuế quan (NTBs)
- 1.4- Việt Nam tham gia chương trình thống nhất hoạt động hải quan
- 1.5- Quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN
- 2- Việt Nam hội nhập APEC
- 3- Việt Nam hội nhập ASEM
- 4- Việt Nam tham gia các FTAs
1- Việt Nam hội nhập ASEAN
1.1- Việt Nam tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (‘AFTA’) và Hiệp định về Chương trình thuế quan ưu đãi hiệu lực chung (‘CEPT’)
Việt Nam tham gia AFTA, thực hiện CEPT từ ngày 1/1/1996 và cam kết giảm thuế quan đối với 6.130 mặt hàng xuống 0-5% trước ngày 1/1/2006. Danh mục hàng hoá thực hiện CEPT của Việt Nam được xây dựng theo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách;
- Bảo hộ hợp lí sản xuất nội địa;
- Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kĩ thuật và đổi mới công nghệ cho sản xuất nội địa;
- Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các quy định của CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Tại thời điểm nêu trên, Việt Nam đã hoàn thành nghĩa vụ giảm thuế quan theo cam kết. Tính đến năm 2010, Việt Nam đã hoàn thành giảm thuế nhập khẩu cho 10.054 dòng thuế xuống mức 0-5%, chiếm 97,8% số dòng thuế, trong đó có 5.488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%.
1.2- Việt Nam tham gia xây dựng và phát triển Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
Những năm gần đây, các nước thành viên ASEAN đã tích cực đẩy mạnh tiềm năng, thế mạnh của ASEAN. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9 tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a vào tháng 10/2003, lãnh đạo của 10 nước ASEAN đã kí kết Tuyên bố hoà hợp ASEAN II (còn gọi là Tuyên bố Ba-li II) thông qua khuôn khổ xây dựng Cộng đồng ASEAN, bao gồm ba trụ cột là Cộng đồng an ninh-chính trị, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hoá-xã hội.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13 tại Xinh-ga-po tháng 11/2007, ASEAN đã thông qua Kế hoạch tổng thể và lộ trình chiến lược thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN (‘AEC’), được coi là ‘kim chỉ nam’ của ASEAN cho mục tiêu thiết lập AEC.
Năm 2009, năm đầu tiên Hiến chương ASEAN được thực hiện với nhiều mục tiêu, trong đó có việc xây dựng một Cộng đồng kinh tế ASEAN (‘AEC’) vào năm 2015. ASEAN chủ trương xây dựng AEC dựa trên sự liên kết về chất giữa các ngành chủ chốt, đang có ưu thế hoặc nhiều tiềm năng phát triển trong nền kinh tế ASEAN bằng các biện pháp cụ thể như: Đẩy nhanh tự do hoá thương mại các sản phẩm, dịch vụ liên quan, hài hoà tiêu chuẩn, đơn giản hoá thủ tục hải quan, thuận lợi hoá thương mại v.v.. Một số ngành được lựa chọn ưu tiên đẩy nhanh hội nhập trong ASEAN bao gồm: Sản phẩm gỗ, nông sản, ô-tô, sản phẩm cao su, điện tử, dệt may, thủy sản, ASEAN điện tử, vận tải hàng không, du lịch và y tế.
Các chương trình liên kết và tự do hoá thương mại của ASEAN trong khuôn khổ của AEC đều được thể chế hoá bằng các hiệp định như: Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (‘ATIGA’), thay thế cho CEPT; Hiệp định khung về thương mại dịch vụ của ASEAN (‘AFAS’); Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (‘ACIA’). ..
Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với thái độ chủ động và tích cực:
- Đến năm 2010, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho 10.054 dòng thuế xuống mức 0-5% theo CEPT/AFTA, chiếm 97,8% số dòng thuế trong biểu thuế, trong đó có 5.488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%.
- Việt Nam sẽ hoàn thành việc chuyển dần các sản phẩm trong Danh mục nhạy cảm vào Kế hoạch cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT và giảm thuế quan đối với những sản phẩm này xuống mức 0-5% vào ngày 1/1/2013.
- Việt Nam tham gia hợp tác một cách toàn diện với các nước thành viên ASEAN trong các lĩnh vực như: Thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận tải, viễn thông, bảo hộ iPRs, chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng. Đến nay, Việt Nam là một trong bốn thành viên ASEAN có tỉ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong Lộ trình tổng thể thực hiện AEC.
- AEC vẫn được Việt Nam lựa chọn là một nội dung quan trọng nhất trong Chương trình nghị sự của ASEAN trong năm 2010. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 16 tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Việt Nam, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ra Tuyên bố về phục hồi và phát triển bền vững, khẳng định quyết tâm củng cố và xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015.
Hội đồng AEC nhất trí xây dựng công cụ mới là Biểu đánh giá thực hiện AEC là một cơ chế giám sát minh bạch và chặt chẽ tiến độ thực hiện AEC của từng thành viên. Năm 2010, lần đầu tiên, Biểu đánh giá AEC cho giai đoạn 2007-2010 đã được hoàn thành.
1.3- Việt Nam tham gia chương trình loại bỏ các biện pháp phi thuế quan (NTBs)
Song song với Chương trình giảm thuế quan, Việt Nam cần phối hợp với các nước ASEAN triển khai Chương trình loại bỏ các NTBs. Cụ thể như:
- Các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu (quota, cấm nhập khẩu) được loại bỏ khi thuế suất của mặt hàng đó đã được giảm xuống dưới 20% theo lộ trình giảm thuế quan;
- Các NTBs khác được loại bỏ dần trong vòng 5 năm tiếp theo, nhưng không muộn hơn năm 2006.
Các NTBs đã được Việt Nam loại bỏ tương đối nhanh. Trước năm 2000, Việt Nam áp dụng khá nhiều NTBs để quản lí xuất nhập khẩu nông sản như: Đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu đối với gạo; giấy phép nhập khẩu đối với gạo, cà phê; đầu mối xuất khẩu cao su tại cửa khẩu đối với Trung Quốc; hạn chế nhập khẩu ngoại tệ đối với nhập khẩu hàng tiêu dùng. Đến năm 2006, về cơ bản Việt Nam hoàn thành việc loại bỏ các biện pháp hạn chế số lượng đối với hàng hoá trao đổi trong khuôn khổ Hiệp định CEPT và tiến tới loại bỏ các NTBs khác. Việt Nam chỉ còn áp dụng biện pháp giấy phép theo chế độ hạn ngạch thuế quan đối với bốn mặt hàng: Muối, đường (tinh luyện, thô), trứng gia cầm và thuốc lá nguyên liệu .
Việc loại bỏ các NTBs cũng là một trong các nội dung quan trọng của tiến trình AEC. Các nước thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, sẽ tập trung vào việc loại bỏ hoàn toàn các NTBs vào năm 2015, đặc biệt tăng cường tính minh bạch trong việc phát triển và ứng dụng các tiêu chuẩn kĩ thuật và thủ tục đánh giá tính hợp chuẩn phù hợp với Hiệp định TBT và Hướng dẫn chính sách ASEAN về tiêu chuẩn và hợp chuẩn.
1.4- Việt Nam tham gia chương trình thống nhất hoạt động hải quan
Việt Nam đã tham gia tích cực Chương trình thống nhất hoạt động hải quan của ASEAN với các nội dung cụ thể sau đây:
- Điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế: Từ ngày 1/7/2003, Việt Nam áp dụng Danh mục biểu thuế quan chung trong ASEAN (viết tắt là ‘AHTN’), thay cho Danh mục biểu thuế quan hiện hành để tính thuế đối với hàng xuất nhập khẩu (xây dựng hệ thống danh mục biểu thuế ASEAN thống nhất ở cấp độ 8 chữ số theo quy định của Công ước HS của WCO).
- Điều hoà thống nhất hệ thống xác định trị giá tính thuế hải quan theo quy định của Hiệp định CVA.
- Điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan: Hải quan các nước ASEAN đã thống nhất quy định về ‘hành lang xanh’, nhằm tạo thuận lợi cho hàng hoá lưu thông theo quy định của CEPT. Trong đó cơ chế ‘Một cửa ASEAN’, như các biện pháp đơn giản hoá, hài hoà hoá và tiêu chuẩn hoá thương mại và hải quan, quy trình, thủ tục hải quan cũng như áp dụng công nghệ tin học trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến thuận lợi hoá thương mại là điểm cốt yếu để thực hiện mục tiêu cuối cùng xây dựng cơ chế ‘Một cửa ASEAN’.
- Triển khai Hiệp định hải quan ASEAN: Việt Nam đã ban hành Luật hải quan mới vào năm 2001, sửa đổi và bổ sung năm 2005, và các văn bản hướng dẫn thi hành phù hợp với thông lệ và yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Để đẩy nhanh tiến trình xây dựng AEC, việc thực hiện Tầm nhìn hải quan ASEAN cũng được thúc đẩy hướng tới mốc thời gian là 2015.
1.5- Quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN
AEC là lựa chọn chính sách mang tầm chiến lược của ASEAN nhưng xuất phát điểm là tận dụng, khai thác tiềm năng hội nhập của mỗi nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Xét trên phương diện chính trị, kinh tế và thương mại, ASEAN là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là động lực chủ yếu giúp nền kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua.
Với lợi thế là một khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lí, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. So với năm 2002, thương mại hai chiều
ASEAN và Việt Nam đã tăng hơn 3 lần, đạt gần 30 tỉ USD vào năm 2008, chiếm 25% tổng kim ngạch của Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang ASEAN là 28,4% và nhập khẩu khẩu là 27%. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN tăng từ 2,9 tỉ USD năm 2003 lên tới 8,9 tỉ USD năm 2009. Năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu sang Xinh-ga-po, Thái Lan, Phi-lip-pin và Cam-pu-chia đều đã đạt trên 1 tỉ USD. Tính đến tháng 11/2011, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được con số ấn tượng, gần 87,2 tỉ USD, tăng 34,7% so với cùng kì năm 2010, trong đó xuất khẩu sang khu vực ASEAN tăng 30,6% so với cùng kì và nhập siêu có xu hướng giảm từ khu vực này. ASEAN giữ vững vị trí đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, vượt qua cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực, cả về chất lượng và giá trị. Từ những mặt hàng nông sản sơ chế và nguyên, nhiên liệu như gạo, cà phê, cao su, dầu thô có hàm lượng chế biến thấp, Việt Nam đã xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, dệt may, nông sản chế biến, mỹ phẩm với giá trị cao và ổn định. Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng gia nhập các câu lạc bộ các nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới về gạo, cao su, cà phê, hạt điều, hàng dệt may.
Bên cạnh những thuận lợi và cơ hội từ hội nhập ASEAN, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt trong việc triển khai và áp dụng các cam kết của AEC.
2- Việt Nam hội nhập APEC
2.1- Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (‘APEC’) được thành lập từ tháng 11/1989 tại Can-bê-ra (Úc), nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng trong khu vực, đồng thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng châu Á-Thái Bình Dương cũng như đáp ứng xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế-thương mại thế giới. APEC có 21 thành viên, bao gồm: Úc, Hoa Kỳ, Ca-na-đa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bru-nây, In- đô-nê-xi-a, Xinh-ga-po, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan, Niu Di-lân, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Chi-lê, Mê-hi-cô, Pa-pua Niu Ghi-nê, Việt Nam, Nga và Pê-ru. Hiện nay, APEC đang ngừng kết nạp thành viên mới để củng cố tổ chức.
Nguyên tắc hoạt động cơ bản của APEC
- Toàn diện: Thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá trên tất cả các lĩnh vực;
- Phù hợp với GATT/WTO;
- Đảm bảo mối tương đồng giữa các thành viên trong việc thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư;
- Không phân biệt đối xử: Không chỉ áp dụng cho các thành viên APEC mà cả với các nền kinh tế không phải là thành viên;
- Minh bạch: Minh bạch hoá mọi chính sách, quy định hiện hành tại các thành viên APEC;
- Lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc (‘Standstill’): Chỉ giảm, không tăng mức bảo hộ;
- ‘Cùng xuất phát, quá trình liên tục và thời gian biểu khác nhau’: Các nền kinh tế thành viên có các thời gian biểu khác nhau và ưu tiên về thời gian đối với nền kinh tế đang phát triển là 10 năm so với nền kinh tế phát triển;
- Linh hoạt, vì trình độ phát triển kinh tế của các thành viên APEC khác nhau;
- Hợp tác kĩ thuật.
Các đặc điểm cơ bản của APEC
- APEC là diễn đàn đối thoại, không phải là diễn đàn thương lượng. Do vậy, xét về tổng thể, những cam kết trong khuôn khổ APEC không có tính ràng buộc cao như trong ASEAN và WTO;
- APEC gắn chặt cam kết của mình với việc thực hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO theo hướng thực hiện sâu hơn và sớm hơn trong khuôn khổ APEC;
- Luôn gắn hoạt động của APEC với các sự kiện chính trị lớn trên thế giới, trên cơ sở quan hệ hữu nghị và hợp tác.
2.2- Việt Nam tham gia APEC
Trong APEC, Việt Nam là thành viên năng động và tích cực với việc chủ động tham gia ngày càng sâu rộng vào hầu hết các chương trình hợp tác của APEC về tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế-kĩ thuật và tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp.
Việc tham gia APEC đã mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Thực tế là những năm gần đây, Việt Nam thu hút khoảng 75% vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và hơn 50% vốn ODA từ các nền kinh tế thành viên APEC. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường gần 3 tỉ dân này chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu hoặc mang tính chiến lược đều có nhiều đối tác nhập khẩu ở các thành viên APEC. Việt Nam cũng có nhiều đối tác quan trọng trong APEC như: Các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Úc... Một số thành viên APEC đang dần trở thành đối tác chiến lược trong kế hoạch phát triển quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư chặt chẽ, toàn diện hơn của Việt Nam.
Lĩnh vực thuế quan và rào cản phi thuế quan (NTBs)
Việt Nam cam kết giảm thuế quan, minh bạch hoá chính sách thuế quan trong dài hạn, loại bỏ dần các NTBs gây cản trở thương mại quốc tế, phù hợp với các cam kết trong ASEAN và WTO.
Lĩnh vực hải quan
Việt Nam đã cùng các thành viên triển khai Kế hoạch hành động về thuận lợi hoá thương mại để giảm chi phí giao dịch trong khu vực APEC; cam kết hài hoà hoá các thủ tục hải quan phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt cam kết tuân thủ các quy định của WTO. Việt Nam cũng đã tham gia Sáng kiến về hải quan một cửa, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư.
Lĩnh vực thương mại dịch vụ
Việt Nam cam kết liên tục giảm những hạn chế để mở cửa thị trường thương mại dịch vụ, áp dụng MFN và NT nhằm tạo thuận lợi, công bằng và minh bạch cho các nhà cung ứng dịch vụ của các nền kinh tế thành viên, cũng như cơ hội cho các nhà cung ứng dịch vụ Việt Nam hướng ra thị trường toàn khối. Việt Nam đã thực hiện bảo mật dữ liệu trong giao dịch thương mại điện tử, tham gia Chương trình thẻ đi lại của doanh nhân APEC, để tạo thuận lợi cho các doanh nhân APEC được nhập cảnh vào Việt Nam vì mục đích kinh doanh, thương mại và đầu tư.
Tiêu chuẩn và hài hoà hoá
Việt Nam đã dần dần đưa danh mục các tiêu chuẩn ưu tiên hài hoà trong APEC vào kế hoạch xây dựng tiêu chuẩn của Việt Nam, trong số đó đã có nhiều tiêu chuẩn được chấp nhận thành tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam đã hài hoà được trên 200 tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế.
Việt Nam đã tham gia vào thoả thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn trong APEC (APEC-MRA) đối với các sản phẩm điện, điện tử, đồ chơi, thực phẩm..., điều này giúp Việt Nam thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các thị trường ‘khó tính’ của các nền kinh tế APEC như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Niu Di-lân.86
Hợp tác trong thời gian tới
Việt Nam tiếp tục hợp tác với các thành viên APEC để hướng tới thực hiện mục tiêu Bô-go về thương mại và đầu tư tự do và mở cửa vào năm 2020, cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp thông qua các hoạt động sau:
- Loại bỏ các rào cản tại biên giới, trong đó có việc giảm thuế quan và NTBs trong khuôn khổ Kế hoạch hành động quốc gia (viết tắt là ‘IAP’) để thúc đẩy thương mại, đầu tư trong khu vực APEC; phối hợp với các nền kinh tế APEC nghiên cứu hài hoà hoá quy tắc xuất xứ để tạo thuận lợi cho hàng hoá xuất khẩu; thực hiện cơ chế hải quan ‘một cửa’ để rút ngắn thời gian thông quan hàng hoá và giảm chi phí cho doanh nghiệp; tiếp tục tham gia chương trình tạo thuận lợi cho đi lại của doanh nhân trong khu vực APEC;
- Loại bỏ các rào cản sau biên giới thông qua việc thực hiện các chương trình cải cách cơ chế quản lí nhằm tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh, trong đó có việc thành lập doanh nghiệp và các thủ tục để tạo thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
- Tăng cường kết nối ‘qua biên giới’ để tạo thuận lợi cho hoạt động vận tải hàng hoá giữa các thành viên, trong đó có việc loại bỏ các
rào cản trong lĩnh vực hậu cần thương mại (logistics);
- Tăng cường hợp tác với các thành viên APEC trong việc nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khuôn khổ hoạt động của Nhóm công tác về doanh nghiệp vừa và nhỏ của APEC (‘SMEWG’);
- Thúc đẩy hợp tác doanh nghiệp thông qua Hội đồng tư vấn kinh doanh APEC (‘ABAC’) như là kênh trao đổi thông tin và khuyến nghị giữa chính phủ và doanh nghiệp, đồng thời là đầu mối để kết nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp ở các thành viên APEC.
3- Việt Nam hội nhập ASEM
3.1- Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của ASEM
Diễn đàn hợp tác Á-Âu (viết tắt là ‘ASEM’) được thành lập tháng 3/1995 tại Băng Cốc (Thái Lan) nhằm thúc đẩy đối thoại chính trị để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau và thống nhất quan điểm của hai châu lục đối với các vấn đề chính trị và xã hội của thế giới; thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên và tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, môi trường, phát triển nguồn nhân lực... nhằm tạo ra sự tăng trưởng bền vững ở cả châu Á và châu Âu.
Mục tiêu cơ bản
- Thúc đẩy giao lưu, hỗ trợ giữa các doanh nghiệp;
- Cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư;
- Tạo sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Một số nguyên tắc hoạt động cơ bản
- Bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và đôi bên cùng có lợi;
- Đồng thuận;
- Đối thoại;
- Hợp tác đồng đều trên các lĩnh vực: tăng cường đối thoại chính trị, củng cố hợp tác kinh tế và xúc tiến hợp tác trong các lĩnh vực khác;
- Tự nguyện.
3.2- Việt Nam tham gia ASEM
Lĩnh vực chính trị
- Việt Nam đã tham gia đầy đủ và tích cực vào các sinh hoạt chính trị của ASEM tại các hội nghị cấp cao, hội nghị bộ trưởng, các cuộc họp ASEM SOM, họp điều phối viên.
- Tham gia xây dựng các văn kiện như khuôn khổ hợp tác Á-Âu, các tuyên bố của chủ tịch hội nghị nhằm xác định mục tiêu, nguyên tắc, cơ chế, ưu tiên, định hướng cho hợp tác ASEM.
- Đề xuất đưa hợp tác ASEM, nhất là hợp tác kinh tế, đi vào thực chất tại Hội nghị cấp cao ASEM 5 và đã được các thành viên ủng hộ.
- Đăng cai Hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 tại Hà Nội năm 2004.
Lĩnh vực kinh tế
- Việt Nam đã tham gia xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động thuận lợi hoá thương mại (‘TFAP’): Xây dựng Danh sách các rào cản chung trong thương mại trên 8 lĩnh vực ưu tiên ban đầu của TFAP và một số rào cản chung khác.
- Việt Nam đã tham gia xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (‘IPAP’); trong đó tham gia mạng thông tin về đầu tư ASEM, cung cấp thông tin cập nhật về tình hình đầu tư nước ngoài, các văn bản pháp luật, chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; cử người tham gia Nhóm chuyên gia về đầu tư (‘IEG’).
- Việt Nam tích cực trao đổi tài chính, tham gia các chương trình hợp tác chống rửa tiền, trao đổi kinh nghiệm về quản lí nợ công. Việt Nam đã tận dụng được Quỹ tín thác ASEM (‘AFT’) cho tiến trình cải cách hệ thống tài chính-ngân hàng và hệ thống an ninh xã hội với sự trợ giúp hơn 20 dự án, giá trị trên 13 triệu USD. Một số dự án triển khai có hiệu quả như: Cải cách và phát triển hệ thống ngân hàng; cải cách các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam; thúc đẩy và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực giao thông vận tải; Chương trình phát triển mạng lưới bảo đảm xã hội và tạo công ăn việc làm; cơ cấu khu vực ngân hàng; cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo và đào tạo các nhà lãnh đạo và quản lí về quản trị doanh nghiệp...
Một số khó khăn trong hợp tác ASEM
Kể từ ASEM-5 tại Hà Nội, hợp tác kinh tế ASEM không có nhiều biến chuyển. Các hội nghị thường niên chính thức của kênh kinh tế như Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEM, Hội nghị các quan chức cao cấp về thương mại và đầu tư ASEM đều không thể tổ chức hoặc tổ chức không thành công do nhiều nguyên nhân khác nhau, không chỉ do sự bất đồng quan điểm về tính định hướng của một số thành viên ASEM mà còn xuất phát từ bản thân cơ chế hợp tác của ASEM.
Kể từ đầu năm 2004 đến nay, các vấn đề lớn liên quan đến nội dung kinh tế hầu như chưa được khai thông và định hướng. Chỉ có ba hội nghị chính thức của ASEM về kinh tế được tổ chức (sau khi trì hoãn nhiều lần), đó là Hội nghị các quan chức cao cấp (cấp vụ) về thương mại và đầu tư lần thứ 10 (SOMTI-10) tại Trung Quốc tháng 7/2005, Hội nghị không chính thức các quan chức cao cấp ASEM tại Hà Lan tháng 10/2005 và mới đây nhất là Hội nghị các quan chức cao cấp về thương mại và đầu tư ASEM lần thứ 11 (SOMTI-11) tại Xlô-vê-ni-a tháng 4/2008, song các hội nghị này chỉ mang tính chất gặp gỡ và trao đổi.
Trong năm 2011, Việt Nam đã tham dự Hội nghị các quan chức cao cấp về thương mại và đầu tư ASEM, được tổ chức tại Brúc-xen, Bỉ vào tháng 2/2011 và cũng đã tranh thủ vận động các thành viên ASEM nối lại hợp tác kinh tế, trong đó có việc tổ chức Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEM đã bị trì hoãn trong nhiều năm qua.
4- Việt Nam tham gia các FTAs
4.1- Tổng quan
Đối với Việt Nam, FTAs không phải là sân chơi mới mẻ. Việt Nam đã tham gia AFTA từ năm 1996 và từ đó đến nay đã đàm phán, tham gia 7 FTAs khu vực và song phương với nhiều hình thức và nội dung khác nhau.
Trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam đã kí kết và triển khai thực hiện Hiệp định thương mại tự do ASEAN (‘AFTA’), Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (‘ACFTA’), Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc (‘AKFTA’), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (‘AJCEP’), Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Úc-Niu Di-lân (‘AANZFTA’), và
Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ (‘AIFTA’). Ngoài ra, đến thời điểm tháng 2/2012, Hiệp định thương mại tự do ASEAN- EU đang tiếp tục đàm phán.
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam-Nhật Bản là FTA song phương đầu tiên của Việt Nam, tiếp theo là FTA song phương với Chi-lê.
Một số cam kết của Việt Nam trong FTAs đã cao hơn so với cam kết trong khuôn khổ gia nhập WTO. Trong thời gian tới, Việt Nam đứng trước cơ hội tham gia nhiều ‘sân chơi’ phức tạp hơn, như việc thực hiện Lộ trình hướng đến Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015, đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (‘TPP’), FTA song phương Việt Nam-EU, Hiệp định FTA Việt Nam với Khu vực thương mại tự do châu Âu (‘EFTA’), FTA Việt Nam-Liên bang Nga.
Đối với Việt Nam, việc tham gia các FTAs sẽ nhằm thực hiện đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
4.2- Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi đàm phán Hiệp định TPP
Ngày 15/11/2010, Chủ tịch nước Việt Nam thông báo quyết định tham gia đàm phán Hiệp định TPP. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia đàm phán một FTA đa phương với tốc độ đàm phán nhanh, quy mô sâu rộng, mức độ cam kết cao và phức tạp, trong bối cảnh Việt Nam có trình độ phát triển thấp nhất trong số các nước tham gia đàm phán TPP.
Cơ hội
- Việt Nam có cơ hội tham gia vào một FTA khu vực có phạm vi toàn diện; có cơ hội tiếp cận thị trường tất cả các nước thành viên TPP với điều kiện ưu đãi; kết nối nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế của Hoa Kỳ và các thành viên TPP khác, góp phần thúc đẩy đầu tư của Hoa Kỳ và các nước TPP vào Việt Nam.
- Giúp Việt Nam phát triển về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, phát triển khuôn khổ pháp luật nhằm tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế.
- Giúp Việt Nam có điều kiện tranh thủ sự hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thách thức
- Pháp luật lao động sẽ cần phải sửa đổi đạt tiêu chuẩn của các nước thành viên TPP, nhất là liên quan đến thoả ước lao động tập thể, quyền tổ chức nghiệp đoàn;
- Việc tham gia TPP không làm cải thiện hơn quy chế nền kinh tế thị trường của Việt Nam;
- Việt Nam có thể phải chấp nhận các cam kết ‘TRIPS+’ trong lĩnh vực IPRs và nhiều cam kết hơn trong lĩnh vực môi trường;
- Việt Nam có thể phải chấp nhận gia nhập Hiệp định mua sắm chính phủ (‘GPA’).
Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm