Các quy định khác về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội
Nội dung bài viết
- 1- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 102 Bộ luật hình sự năm 2015)
- 2- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015)
- 3- Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 104 Bộ luật hình sự năm 2015)
- 4- Giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 105 Bộ luật hình sự năm 2015)
- 5- Tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 106 Bộ luật hình sự năm 2015)
- 6- Xóa án tích (Điều 107 Bộ luật hình sự năm 2015)
1- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 102 Bộ luật hình sự năm 2015)
Bộ luật hình sự năm 1999 chưa có quy định riêng về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt mà người thực hiện tội phạm là người dưới 18 tuổi. Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung 01 điều (Điều 102) về vấn đề này. Theo đó, có những nội dung quy định bổ sung cho Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:
+ Đối với chuẩn bị phạm tội
- Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về hành vi chuẩn bị phạm tội là không quá 1/3 mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt được quy định cho chuẩn bị phạm tội (khoản 2 Điều 102 Bộ luật hình sự năm 2015). Theo khoản 3 Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trong giai đoạn chuẩn bị đối với hai tội là tội giết người (Điều 123) và tội cướp tài sản (Điều 168).
- Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi về hành vi chuẩn bị phạm tội là không quá 1/2 mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt được quy định cho chuẩn bị phạm tội (khoản 2 Điều 102 Bộ luật hình sự năm 2015). Theo khoản 2 Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về chuẩn bị phạm tội đối với tội phạm được quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 Bộ luật hình sự năm 2015.
+ Đối với phạm tội chưa đạt
- Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không được quá 1/3 mức hình phạt cao nhất có thể áp dụng dối với đối tượng này (các điều 100 và 101 Bộ luật hình sự năm 2015):
- Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không được quá 1/2 mức hình phạt cao nhất có thể áp dụng đối với đối tượng này (các điều 99, 100 và 101 Bộ luật hình sự năm 2015).
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest
2- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015)
Nguyên tắc chung về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội được quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 và nội dung này được đề cập ở chương 14. Tuy nhiên, đối với trường hợp phạm nhiều tội mà người thực hiện là người dưới 18 tuổi, Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung các quy định cụ thể sau:
Thứ nhất, đối với trường hợp các tội phạm được thực hiện khi chủ thể đều dưới trên 16 tuổi (nhưng dưới 18 tuổi) hoặc đều dưới 16 tuổi
- Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất không được quá 03 năm;
- Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất không được quá 18 năm (đối với trường hợp người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội) và không quá 12 năm (đối với trường hợp người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội);
Thứ hai, đối với trường hợp các tội phạm được thực hiện khi chủ thể ở hai độ tuổi khác nhau, dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
- Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015.
Thứ ba, đối với trường hợp các tội phạm được thực hiện khi chủ thể ở hai độ tuổi khác nhau, đủ 18 và chưa đủ 18 tuổi
- Nếu mức hình phạt tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Nếu mức hình phạt tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Công ty Luật TNHH Everest
3- Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 104 Bộ luật hình sự năm 2015)
Vấn đề tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 và nội dung này được đề cập ở chương 14. Tuy nhiên, đối với trường hợp mà người phạm tội là người dưới 18 tuổi, Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung Điều 104 với nội dung: Hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xem thêm: Về Công ty Luật TNHH Everest
4- Giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 105 Bộ luật hình sự năm 2015)
Quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên được quy định chung tại các điều 63, 64 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu cần tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dưới 18 tuổi tái hòa nhập Bộ luật hình sự năm 2015 quy định điều kiện xét giảm và mức xét giảm có lợi hơn cho người bị kết án so với quy định chung. Theo đó, người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được 1/4 thời hạn thì được tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là 2/5 mức hình phạt đã tuyên.
Trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn thì theo đề nghị của viện trường viện kiểm sát, tòà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực dân sự của Công ty Luật TNHH Everest
5- Tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 106 Bộ luật hình sự năm 2015)
Quy định về tha tù trước thời hạn được quy định chung tại Điều 66 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt của chế định này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định điều kiện tha tù có lợi hơn cho người bị kết án so với quy định chung. Theo đó, khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước hạn khi có đủ các điều kiện: a) Phạm tội lần đầu; b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; c) Đã chấp hành được 1/3 thời hạn phạt tù; d) Có nơi cư trú rõ ràng.
Các quy định chung khác về tha tù trước thời hạn được áp dụng bình thường đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Xem thêm: Dịch vụ trợ lý pháp lý thuê ngoài của Công ty Luật TNHH Everest
6- Xóa án tích (Điều 107 Bộ luật hình sự năm 2015)
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 03 trường hợp người chưa thành niên bị kết án được coi là không có án tích:
- Thứ nhất, người bị kết án là người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi;
- Thứ hai, người bị kết án là người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý;
- Thứ ba, người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Như vậy, đối với 03 trường hợp này không có vấn để xóa án tích.
Đối với trường hợp còn lại là những trường hợp có án tích thì việc xóa án tích chỉ theo hình thức xóa án tích đương nhiên nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: a) 06 tháng trong trưởng hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; b) 01 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; c) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; d) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest
7- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Các quy định khác về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Các quy định khác về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm