Hệ thống pháp luật Malaysia

15/03/2023
Lê Thị Linh Chi
Lê Thị Linh Chi
Malaysia là thuộc địa cũ của Anh và từ một nước thuộc địa, Malaysia đã dành được quyền độc lập vào năm 1957. Tuy nhiên, trong suốt quá trình lịch sử đến nay, việc tiếp nhận pháp luật của Anh vào Malaysia được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau mà chủ yếu là thông qua các thẩm phán và các nhà lập pháp.

1- Khái quát chung về hệ thống pháp luật Malaysia

Nhà nước hiện đại Malaysia là nhà nước liên bang được thành lập năm 1963, với 13 bang và ba vùng lãnh thổ thuộc liên bang, chia thành hai khu vực hành chính lãnh thổ:

- Vùng hành chính lãnh thổ thứ nhất bán đảo Malaysia (còn được gọi là Malaya và West Malaysia) có 11 bang và các vùng lãnh thổ thuộc liên bang - Kuala Lumpur, Labuan và Putrajaya.

- Vùng hành chính lãnh thổ thứ hai - bao gồm hai bang là Sabah và Sarawak.

Sự khác biệt về địa lí và nguồn tài nguyên của hai vùng lãnh thổ này dẫn đến những khác biệt về mức độ phát triển cũng như đặc điểm kinh tế xã hội của từng vùng. Trong khi Peninsula Malaysia phát triển công nghiệp gắn liền với các đô thị thì Sabah và Sarawak phát triển mạnh nền sản xuất nông nghiệp cùng với các vùng nông thôn đỉ kèm với những nguồn lợi từ việc khai thác dầu mỏ, ga và khai thác rừng.

Với dân số khoảng 25 triệu người, Malaysia có khoảng hơn 60 dân tộc khác nhau. Trong đó, khoảng 16 dân tộc có số lượng dân cư khá đông, số còn lại là các dân tộc thiểu số. Người Malay chiếm tỉ lệ khoảng 50% dân cư của Malaysia, những người gốc Trung Quốc di cư từ các thời kỳ trước là những cộng đồng đông dân cư nhất ở Malaysia, chiếm khoảng hơn 25% dân số. Cơ cấu thành phần tôn giáo trong dân cư của Malaysia cũng rất đa dạng. Người Hồi giáo đông nhất, chiếm khoảng 60% dân cư, người theo đạo Phật chiếm khoảng 20%, đạo Cơ đốc giáo chiếm khoảng 9%, người theo đạo Hindu chiếm 6.3%. Sự đa dạng này là nền tảng tạo nên sự đa dạng về văn hoá và dẫn đến những nét riêng biệt trong hệ thống pháp luật của Malaysia.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest

2- Nguồn pháp luật Malaysia

Theo các luật gia Malaysia, mặc dù đạo Hindu và đạo Phật xuất hiện rất sớm ở vùng đất này nhưng sự ảnh hưởng của chúng đối với hệ thống pháp luật của Malaysia không mạnh bằng các tập quán của người Malaysia, đạo Hồi, Hệ thống Thông luật của Anh và những tập quán khác không phải của người Malaysia.

[a] Các tập quán của người Malaysia

đã tồn tại và rất phổ biến ở vùng bán đảo Malay trước khi người Anh xâm chiếm vùng này làm thuộc địa. Luật tập quán của Malaysia có thể được chia thành ba nhóm khác nhau.

- Nhóm thứ nhất được gọi là adat perpateh, là những tập quán của những người Malay nhập cư từ vùng cao nguyên Minangkabau của Sumatra. Đó là những tập quán về chiếm hữu đất đai, thừa kế bằng các quy tắc về kết hôn, li hôn, nhận con nuôi và việc sử dụng quyền lực của cộng đồng được áp dụng chủ yếu ở bang Negri Sembial và quận Naning của bang Malacca. Các tập quán này thường được áp dụng ở các vùng có chế độ mẫu hệ.

- Nhóm tập quán thứ hai được gọi là adat temenggong có nguồn gốc từ những người nhập cư đến từ vùng Palembang của Sumatra. Các tập quán này được áp dụng đối với phần lớn những vùng còn lại của bán đảo Malay. Các tập quán này tập trung vào việc thừa kế trong chế độ mẫu hệ và ngoại tộc hôn.

- Nhóm thứ ba là các tập quán và các giải thích tập quán của người dân ở các địa phương khác nhau áp dụng trong phạm vi các địa phương đó.

[b] Đạo Hồi

Đạo Hồi bắt đầu được biết đến ở Malaysia từ thế kỉ thứ X. Sự phát triển của đạo Hồi đã tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của các vương quốc Hồi giáo nhỏ ở khu vực Malaya và Indonesia. Đến cuối thế kỉ XIV và đầu thế kỉ XV, vương quốc Hồi giáo đã được hình thành với sự phát triển mạnh nhất của Vương quốc Malacca.

Sự phát triển của Vương quốc Hồi giáo này đã làm cho nó trở thành trung tâm có vai trò quan trọng trong việc mở rộng đạo Hồi đến các vùng lãnh thổ khác của Malaya. Trong thời kì thịnh vượng của Vương quốc Malacca, hai tập luật lệ đã được hệ thống hoá là Luật Malacca (Undang-undang Melaka) và Luật hàng hải của Malacca (Undang-undang Laut Melaka). Trong đó, Luật Malacca quy định chủ yếu về các vấn đề như đất đai, hình phạt đối với các loại tội phạm và vi phạm dân sự, các vấn đề về hôn nhân gia đình. Nội dung của hai tập luật lệ  này là sự kết hợp của những di sản của luật Hindu với luật Hồi giáo và các tập quán Malay

[c] Quá trình thuộc địa hoá của Anh

Các vùng lãnh thổ của Malaysia tạo điều kiện cho pháp luật Anh được áp dung ở đây. Mặc dù, những người châu Âu đặt chân đầu tiên đến vùng đất của Malaysia là người Bồ Đào Nha (năm 1511) và Hà Lan (năm 1596) nhưng pháp luật của Bồ Đào Nha và Hà Lan dường như ít ảnh hưởng đến vùng đất này. Các thương gia của Anh có mặt ở Malaya từ thế kỉ XVII nhưng phải đến năm 1786 người Anh mới thiết lập được sự kiểm soát đầu tiên ở vùng lãnh thổ của Malaysia là Penang.

Sau đó, người Anh đã từng bước thực hiện sự kiểm soát đối với các vùng đất khác. Các hiệp ước được kí kết giữa Anh và Hà Lan (1824 và 1891) cùng với những hiệp ước được kí kết với các vương quốc Hồi giáo khác ở vùng đất này đã giúp cho người Anh dần dần kiểm soát toàn bộ Malaysia.

Tuy nhiên, “các bang của Malaya không phải là thuộc địa theo đúng nghĩa mà thực chất là những nước được bảo hộ với những người đứng đầu vẫn tiếp tục thực hiện quyền lực chủ yếu là mang tính hĩnh thức về các vấn hành chính, quyển lực thực sự và tối cao được thực hiện bởi các công sứ của Anh, một loại toàn quyền, là những người đại diện của chính quyền Anh”. Cùng với quá trình thuộc địa hoá, pháp luật Anh từng bước được đưa vào áp dụng đối với các vùng lãnh thổ ở Malaysia. 

Pháp luật Anh được áp dụng ở Malaysia trên cơ sở những tuyên bố của chính quyền Anh về pháp luật đối với vùng lãnh thổ này và kèm theo đó là việc thành lập các toà án của Anh ở các vùng do người Anh kiểm soát. Sau khi giành được quyền kiểm soát đối với Penang năm 1786, người Anh bắt đầu giới thiệu pháp luật của mình vào vùng đất này. Tuy nhiên, trong khoảng 20 năm đầu pháp luật ở Penang vẫn trong tình trạng hỗn độn, các tập quán và luật lệ của các vùng này vẫn được phép tiếp tục áp dụng nhưng được thay đổi thích hợp với tư tưởng của pháp luật Anh.

Tình trạng hỗn độn này chấm dứt bởi Tuyên bố của Hoàng gia về tư pháp năm 1807 (The Royal Charter of Justice 1807). Tuyên bố này đã thành lập Toà án tư pháp (The Court of Judicature) ở hòn đảo của Thái tử xứ Wales (Penang) với thẩm quyền xét xử các vấn đề hình sự, dân sự và những vấn đề thuộc về giáo hội. Không chỉ vậy, Tuyên bố này đã được các toà án giải thích như là sự giới thiệu pháp luật Anh cho Penang.

Sau khi thành lập được Vùng thuộc địa eo biển (Straits Settlement) trên cơ sở thành lập Singapore (năm 1819) và Malacca (theo Hiệp ước Anh - Hà Lan năm 1824), năm 1826, bản tuyên bố mới được ban hành có tên là “Tuyên bố thứ hai về nền tư pháp”. Theo bản tuyên bố này, toà án mới được thành lập có tên là “Toà án tư pháp ở hòn đảo của Thái tử xứ Wales, Singapore và Melaka”.

Tuyên bố thứ ba của Anh về chế độ tư pháp ở các vùng thuộc địa của Anh được ban hành năm 1855 nhằm tổ chức lại hệ thống toà án. Tuy nhiên, toà án này đã bị huỷ bỏ và được thay thế bằng Toà án tối cao của vùng thuộc địa eo biển (Supreme Court of Strait Settlements) năm 1868.

Năm 1873, cùng với việc cải tổ hệ thống toà án ở Anh, hệ thống toà án ở các vùng thuộc địa của Anh cũng được cải tạo. Trong đó, đáng chú ý là việc thành lập Toà án xét xử theo quý (The Court of Quater Sesssions) với thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự ở các vùng thuộc địa này. Việc thành lập các toà án đã tạo điều kiện cho pháp luật của Anh được áp dụng tại các vùng lãnh thổ của Malaysia.

Cùng với việc thành lập các toà án, các quy định về thương mại và dân sự của pháp luật Anh cũng được tiếp nhận vào Malaysia suốt thời kì từ cuối thế kỉ XIX và sang đến những năm 50 của thế kỉ XX. Sự tiếp nhận này được thể hiện rõ trong sắc lệnh Luật dân sự năm 1878 được sửa đổi bằng Luật dân sự năm 1956, trong đó đã xác định những quy định của pháp luật Anh được áp dụng ở Malaysia.

Trong suốt quá trình lịch sử đến nay, việc tiếp nhận pháp luật của Anh vào Malaysia được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau mà chủ yếu là thông qua các thẩm phán và các nhà lập pháp. Các thẩm phán trong quá trình xét xử áp dụng các nguyên tắc pháp luật của Anh, các nhà xây dựng luật pháp khi soạn thảo và ban hành các đạo luật đã đưa các nguyên tắc pháp luật đã được các thẩm phán áp dụng vào trong các đạo luật.  Ngoài ra, việc các luật gia được đào tạo theo truyền thống của Anh và tiếng Anh được xem ngôn ngữ phổ biển trong hoạt động của bộ máy nhà nước cũng là những nhân tố làm cho Malaysia dễ dàng tiếp nhận pháp luật Anh.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực đầu tư của Công ty Luật TNHH Everest

3- Hệ thống Tòa án của Malaysia

Malaysia có hai hệ thống toà án tồn tại song song và độc lập, đó là hệ thống toà án thường và hệ thống toà án Hồi giáo.

[a] Hệ thống tòa án thường

Hệ thống toà án thường có cơ cấu tổ chức giống như hệ thống toà án của nhà nước đơn nhất mặc dù Malaysia là nhà nước có cấu trúc liên bang. Trong đó, toà án cao nhất trong hệ thống toà án Malaysia là Toà án liên bang, dưới đó là Toà án phúc thẩm, hai toà án cấp cao có thẩm quyền và địa vị ngang nhau, là toà án của vùng bán đảo Malaysia (Malaya) và toà án của các bang Sabah và Sarawak. Dưới toà án cấp cao là toà án Magistrate và toà án Sessions. Toà án đặc biệt được thành lập để xét xử những người đứng đầu các bang khi họ vi phạm pháp luật.

- Tòa án liên bang

Toà án liên bang là toà án cao nhất trong hệ thống toà án của Malaysia và là toà án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm cuối cùng. Trước khi đạo luật A885 có hiệu lực từ ngày 26/6/1994, Toà án liên bang của Malaysia có tên gọi là Toà án tối cao. Thẩm quyền của Toà án liên bang là xét xử phúc thẩm các quyết định của các toà án phúc thẩm đồng thời ở khía cạnh luật hiến pháp, Toà án liên bang có thẩm quyền xét xử các vấn đề liên quan đến hiến pháp như giá trị của các đạo luật của Nghị viện liên bang hoặc cơ quan lập pháp của các bang và tranh chấp giữa các bang hoặc giữa chính phủ liên bang và chính quyền các bang về thẩm quyền được hiến phập quy định.

Toà án liên bang bao gồm Chánh án Toà án liên bang (là người đứng đầu Toà án liên bang cũng như hệ thống tư pháp của Malaysia), Chánh án Toà án phúc thẩm, hai chánh án của hai toà án cấp cao và bổn thẩm phán khác của Toà án liên bang. Các vụ việc được xét xử tại Toà án liên bang thường được thực hiện bởi hội đồng gồm ba thẩm phán. Trong một số vụ việc đặc biệt liên quan đến việc giải thích hiến pháp hoặc tranh chấp giữa các bang hoặc giữa chính quyền liên bang và chính quyền các bang, hội đồng xét xử có thể là năm hoặc bảy thẩm phán. Chánh án Toà án liến bang là người lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ của người đứng đầu Toà án liến bang. Trong trường hợp vắng chánh án Toà  án liên bang thì người đứng đầu toà án phúc thẩm hoặc một trong hai toà án cấp cao hoặc một thẩm phán của Toà án liên bang sẽ được chỉ định thực hiện nhiệm vụ của Chánh án.

Vị trí, vai trò của Toà án liên bang thay đổi trong gần 30 năm qua. Trước đây, mặc dù Toà án liên bang là toà án cao nhất ở Malaysia nhưng các quyết định của nó có thể được phúc thẩm đến Hội đồng cơ mật ở London. Điều đó có nghĩa là phán quyết của Hội đồng cơ mật của Nghị viện Anh là phán quyết cuối cùng đối với một vụ việc cụ thể do toà án Malaysia xét xử. Việc phúc thẩm các phán quyết về hình sự và hiến pháp của Toà án liên bang Malaysia tại Hội đồng cơ mật đã chấm dứt kể từ ngày 1/1/1978.

Sau đó, kể từ ngày 1/1/1985, Hội đồng cơ mật ở London đã chấm dứt toàn bộ thẩm quyền phúc thẩm các phán quyết của Toà án liên bang của Malaysia. Việc chấm dứt thẩm quyền của Hội đồng cơ mật đối với các phán quyết của Toà án liên bang Malaysia đã làm cho Toà án này trở thành toà án có thẩm quyền xét xử cao nhât và cuối cùng đối vói các vụ việc ở Malaysia. Tuy nhiên, việc này đã làm mất đi một cấp xét xử phúc thẩm trong thủ tục tố tụng ở Malaysia. Đe khắc phục tình trạng này, sau khi sửa đổi Hiến pháp liên bang theo Luật A885 ngày 24/6/1994, Malaysia đã thành lập thêm một cấp toà ấn trong hệ thống toà án đó là toà phúc thẩm.

- Tòa án phúc thẩm

Toà án phúc thẩm có chín thẩm phán, trong đó, chánh án đồng thời là thẩm phán của Toà án liên bang. Đây là cơ quan thực hiện chức năng phúc thẩm cấc phán quyết của các toà án cấp cao trong cả lĩnh vực hình sự và dân sự. Toà án phúc thẩm là toà án xét xử phúc thẩm cuối cùng các vấn đề được quyết định trong phạm vi thẩm quyền xét xử phúc thẩm và tái thẩm của toà án cấp cao. Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, Toà án phúc án liên bang thì người đứng đầu toà án phúc thẩm hoặc một trong hai toà án cấp cao hoặc một thẩm phán của Toà án liên bang sẽ được chỉ định thực hiện nhiệm vụ của Chánh án.

Toà án phúc thẩm có chín thẩm phán, trong đó, chánh án đồng thời là thẩm phán của Toà án liên bang. Đây là cơ quan thực hiện chức năng phúc thẩm các phán quyết của các toà án cấp cao trong cả lĩnh vực hình sự và dân sự. Toà án phúc thẩm là toà án xét xử phúc thẩm cuối cùng các vấn đề được quyết định trong phạm vi thẩm quyền xét xử phúc thẩm và tái thẩm của toà án cấp cao. Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, Toà án phúc  thẩm có thể huỷ bỏ các phán quyết của các toà án cấp cao.

- Trong lĩnh vực hình sự, Toà án phúc thẩm có thẩm quyền phúc thẩm các phán quyết sơ thẩm của toà án cấp cao và phán quyết phúc thẩm hoặc tái thẩm của toà án cấp cao đối với các phán quyết của các toà án cấp dưới.

- Trong lĩnh vực dân sự, Toà phúc thẩm cũng có thẩm quyền xét xử và quyết định phúc thẩm đối với phán quyết hoặc lệnh của Toà cấp cao trong vụ kiện hoặc vấn đề dân sự. Theo quy định của pháp luật, Toà án phúc thẩm sẽ không tiến hành xét xử phúc thẩm các phán quyết của Toà án cấp cao trong các trường hợp:

  • Tổng giá trị của tranh chấp dưới 250.000 MR, trừ khi toà án phúc thẩm có văn bản chấp nhận xét xử phúc thẩm vụ việc đó.
  • Khi phán quyết hoặc mệnh lệnh được đưa ra trên cơ sở sự đồng ý của các bên.
  • Khi phán quyết hoặc mệnh lệnh chỉ liên quan đến chi phí mà pháp luật trao quyển cho toà án qưyết định, trừ khi toà án phúc thẩm có văn bản chấp nhận xét xử phúc thấm phán quyết hoặc mệnh lệnh đó.
  • Khi bất kì luật thành văn nào đang có hiệu lực quy định rõ ràng phán quyết của toà án cấp cao là phán quyết cuối cùng.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest

- Tòa án cấp cao (thượng thẩm)

Toà án cấp cao: Malaysia có hai toà án cấp cao có thẩm quyền ngang nhau, đó là toà án cấp cao ở bán đảo Malaya và toà án cấp cao ở Sabah và Sarawak. Tổng số thẩm phán của hai toà án cấp cao này là 55 thẩm phấn. Trong đó, Toà án cấp cao ở Malaya có 48 thẩm phán và toà án cấp cao ở Sabah và Sarawak có 7 thẩm phán. Các toà án cấp cao vừa có chức năng xét xử sơ thẩm vừa có chức năng xét xử phúc thẩm phán quyết của các toà án cấp dưới, giám sát việc xét xử của các toà án cấp dưới.

- Về chức năng xét xử sơ thẩm, các toà án cấp cao có thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự và hình sự với thẩm quyền được xác định theo lãnh thổ. Trong lĩnh vực hình sự, toà án cấp cao chỉ xét xử những vụ án hình sự nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật hình sự Malaysia với mức hình phạt được áp dụng có thể lên đến tử hình, ví dụ như vận chuyển các chất ma tuý, giết người, bắt cóc con tin... xảy ra trong phạm vi thẩm quyền lãnh thổ; hoặc trên tàu hay bất kì phương tiện bay nào đã đãng kí ở Malaysia; hoặc hành vi phạm tội được thực hiện bởi bất kì một công dân hay người định cư lâu dài của Malaysia...

Trong lĩnh vực dân sự, toà án cấp cao xét xử tranh chấp dân sự khi tranh chấp xảy ra trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của toà; hoặc khi nơi cư trú hoặc nơi làm việc của bị đơn hoặc khi một trong sổ các tình tiết của vụ việc xảy ra trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thả của các toà này. Thậm chí, các bên tranh chấp có thể thoả thuận bằng vãn bản về việc lựa chọn một toà án cấp cao xét xử vụ tranh chấp của mình ngay cả khi vụ việc đó theo quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của toà án cấp cao khác.

Các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của toà án cấp cao thường là các vụ việc không thuộc thấm quyền của các toà Magistrate và toà Sessions về các vấn đề hôn nhân, giám hộ, di chúc, phá sản, hợp đồng, phân chia di sản của người chết... mà giá trị tranh chấp lớn hơn 250.000 MR.

- Về chức năng xét xử phúc thẩm, các toà án cấp cao của Malaysia có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các phán quyết trong lĩnh vực dân sự và hình sự của các toà án cấp dưới theo phạm vi lãnh thổ của nó. có 7 thẩm phán. Các toà án cấp cao vừa có chức năng xét xử sơ thẩm vừa có chức năng xét xử phúc thẩm phán quyết của các toà án cấp dưới, giám sát việc xét xử của các toà án cấp dưới.

Ngoài ra, toà án cấp cao còn có thẩm quyền giám sát các vấn đề liên quan đến thủ tục tố tụng và các vấn đề hình sự của vụ án đã được quyết định bởi các toà án cấp dưới hoặc xem xét lại hồ sơ của các vụ kiện dân sự được toà án cấp dưới chuyển lên khi có những vấn đề liến quan đến hiệu lực của quy định trong Hiến pháp.

- Các toà án xét xử theo phiên (Sessions)

Các toà án xét xử theo phiên (Sessions) vói tổng số 60 thẩm phán, trong đó 52 thẩm phán ở Malaya, còn Sabah và Sarawak mỗi bang có 4 thẩm phán. Trong lĩnh vực hình sự, các toà Sessions có thẩm quyền xét xử tất cả các hành vi phạm tội kể cả các tội phạm được quy định có hình phạt tử hình. Tuy nhiên, toà án Sessions không có thẩm quyền áp dụng hình phạt tử hình. Trong lĩnh vực dân sự, các toà án này không bị giới hạn về thẩm quyền xét xử các vụ việc liên quan đến tai nạn giao thông, thuê mướn đất đai, nhà cửa và tịch thu tài sản. Đối với các loại tranh chấp dân sự khác, các toà án Sessions chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp có giá trị không quá 250.000 MR. Ngoài ra, các thẩm phán của toà án Sessions cũng có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp dân sự đã được pháp luật quy định thuộc thẩm quyền xét xử của các toà án cấp cao.

- Các toà án địa hạt (Magistrates)

Các toà án địa hạt (Magistrates) thành lập ở hầu hết các thị xã của Malaysia với tổng số 151 thẩm phán. Trong đó có 122 thẩm phán ở bán đảo Malaysia, 10 thẩm phán ở bang Sabah, 1 thẩm phán ở Labuan và 18 ở Sarawak. Toà án này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với tất cả các vụ án hình sự và dân sự. Trong lĩnh vực hình sự, toà Magistrates được áp dụng hình phạt không quá năm năm tù hoặc mức phạt tiền không quá 10.000 MR. Ngoài ra, toà này có thể áp dụng biện pháp đánh bằng roi với mức tối đa lên đến 12 roi.

Trong lĩnh vực dân sự, toà Magistrates có thẩm quyền xét xử các tranh chấp không quá 25.000 MR. Trường hợp vụ việc có giá trị tranh chấp không quá 5000 MR sẽ được giải quyết tại “bộ phận giải quyết các tranh chấp nhỏ” thuộc toà án Magistrates. Với các vụ việc được giải quyết tại “bộ phận giải quyết tranh chấp nhỏ”, các đương sự phải tự mình chuẩn bị hồ sơ cho vụ việc và các đại diện pháp luật không được pháp tham gia.

- Các toà Penghulu

Các toà Penghulu ở miền Tây của Malaysia có thẩm quyền thấp hơn so với các toà Magistrates. Toà Penghulucũng có thẩm quyền xét xử cả các vụ việc về dân sự và hình sự nhưng với những tranh chấp và tội phạm không nghiêm trọng. Các tranh chấp thuộc thẩm quyền của toà án này là những tranh chấp có giá trị không quá 50 MR. Tuy nhiên, điều kiện để các bên đưa vụ việc của mình ra toà án này là các đương sự phải là những người có chủng tộc châu Á và phải nói thành thạo tiếng Malay.

Trong lĩnh vực hình sự, giới hạn thẩm quyền của toà án này là mức phạt tiền không vượt quá 25 MR. Người phạm tội được xét xử tại các toà án này là những người chưa thành niên có chủng tộc châu Á. Các phán quyết của toà án Penghulu có thể được phúc thẩm tại toà án Magistrates. Ngoài ra, toà án vị thành niên (Juvenil Court) có thẩm quyền tương tự như toà Magistrates cũng được thành lập ở tất cả các bang của Malaya và Sabah để xét xử các vụ việc liên quan đến người chưa thành niên.

Ngoài các toà án nêu trên, theo quy định của Hiến pháp Malaysia, Toà án đặc biệt sẽ được thành lập để xét xử tất cả các hành vi phạm tội và các tranh chấp dân sự có liên quan đến Nhà vua (Yang di Pertuan Agong) - người đứng đầu Nhà nước và người đứng đầu các bang. Chánh án Toà án liên bang là người chủ toạ phiên toà đặc biệt này. Ngoài Chánh án Toà án tối cao, các thành viên khác của Toà án đặc biệt này là Chánh án của các toà án cấp cao và hai thẩm phán khác của toà án cấp cao hoặc Toà án liên bang được lựa chọn bởi Hội nghị của những người đứng đầu các bang.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tư pháp quốc tế của Công ty Luật TNHH Everest

[b] Hệ thống tòa án Hồi giáo

Các toà án Hồi giáo được tổ chức theo các bang, mỗi bang có hệ thống các toà án Hồi giáo riêng biệt và các toà án này chỉ giải quyết các tranh chấp liến quan đến luật Hồi giáo mà các bên tranh chấp phải là các tín đồ Hồi giáo. Hệ thống toà án Hồi giáo được chia thành ba cấp xét xử tồn tại độc lập và song song với hệ thống toà án thường. Các cấp xét xử là toà án Hồi giáo cấp thấp, toà án Hồi giáo cấp cao và toà án Hồi giáo phúc thẩm.

Trong đó, toà án cấp thấp có thẩm quyền xét xử các vụ việc hình sự và dân sự. Trong các vụ việc hình sự và có thể áp dụng hình phạt phạt tiền đến 2000 MR hoặc hình phạt tù đến 2 năm. Các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền xét xử của các toà án này là những tranh chấp có trị giá lến đến 100.000 MR.

Toà án cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các phán quyết của toà án cấp thấp. Đồng thời, các toà án Hồi giáo cấp cao cũng có thâm quyên xét xử sơ thâm các vụ việc hình sự, hôn nhân, li hôn, khiếu kiện về tài sản hôn nhân, giám hộ... do luật của các bang quy định. Toà án Hồi giáo phúc thẩm có thẩm quyền xét xử đối với các phán quyết của toà án cấp cao.

Ngoài toà án thường và toà án Hồi giáo, các toà án dành cho người bản xứ (Native Court) cũng được thành lập ở Malaysia. Toà án dành cho người bản xứ ở Sabah và Sarawak xét xử các tranh chấp của người dân ở hai bang này dựa trên cơ sở các tập quán. Tuy nhiên, các toà án Hồi giáo và toà án dành cho người bản xứ không phải là các toà án thuộc hệ thống toà án thường của Liên bang.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý đăng ký nhãn hiệu của Công ty Luật TNHH Everest

4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest 

Bài viết Hệ thống pháp luật Malaysia được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

Bài viết Hệ thống pháp luật Malaysia có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý hay thuê dịch vụ luật sư tư vấn, luật sư tranh tụng, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest. org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Hệ thống pháp luật Malaysia

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
2.14902 sec| 1042.414 kb