Vị trí, vai trò của Ngành luật hiến pháp

23/02/2023
Phạm Nhật Thăng
Phạm Nhật Thăng
Hệ thống pháp luật Việt Nam được tạo thành bởi nhiều ngành luật khác nhau. Mỗi ngành luật đều có vị trí độc lập tương đối do được hình thành trên cơ sở nhóm đối tượng điều chỉnh riêng mà chúng điều chỉnh. Trong số đó, ngành luật hiến pháp có một vị trí đặc biệt. Ngành luật hiến pháp không chỉ là một ngành luật độc lập mà còn có vị trí là ngành luật chủ đạo của toàn hệ thống.

1- Vị trí của ngành luật hiến pháp

Hệ thống pháp luật Việt Nam được tạo thành bởi nhiều ngành luật khác nhau. Mỗi ngành luật đều có vị trí độc lập tương đối do được hình thành trên cơ sở nhóm đối tượng điều chỉnh riêng mà chúng điều chỉnh. Trong số đó, ngành luật hiến pháp có một vị trí đặc biệt. Ngành luật hiến pháp không chỉ là một ngành luật độc lập mà còn có vị trí là ngành luật chủ đạo của toàn hệ thống. Vị trí chủ đạo cũng là nội dung của mối quan hệ giữa ngành luật hiến pháp với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Hiểu một cách đơn giản, vị trí chủ đạo có nghĩa là ngành luật hiến pháp thiết lập “con đường”, bảo đảm “hướng đi” cho sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam. Nói cách khác, ngành luật hiến pháp, bằng nội dung của các quy phạm pháp luật và các chế định của mình, vừa đóng vai ứò tạo lập nền tảng, vừa dẫn dắt sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như các ngành luật khác trong hệ thống. Vị trí chủ đạo của ngành luật hiến pháp thể hiện qua ba khía cạnh:

Thứ nhất, các quy phạm pháp luật của ngành luật hiến pháp làm nền tảng hình thành các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ những ngành luật lớn như Luật dân sự, Luật hình sự, Luật hành chính, tới các ngành luật nhỏ hơn như Luật thương mại, Luật lao động V.V.. Dưới đây là ví dụ về một số quy định của ngành luật hiến pháp, cụ thể là của Hiến pháp năm 2013, làm nền tảng hình thành các ngành luật khác:

- Khoản 1 Điều 16 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”', khoản 1 Điều 20 quy định: “Mọỉ người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm”’, khoản 1 Điều 21 quy định: “Mọi người CÓ quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bỉ mật cả nhân và bỉ mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”', Điều 42 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của  mình”. Đây là những quy định góp phần xây dựng nền tảng hình thành ngành luật dân sự.

Thứ hai, do ngành luật hiến pháp làm nền tảng hình thành các ngành luật khác nên nhiều ngành luật thể chế hoá các tư tưởng chứa đựng trong các quy phạm pháp luật của ngành luật hiến pháp. Cũng chính vì điều này nên trong nhiều trường hợp, nếu các quy phạm pháp luật của các ngành luật đã lỗi thời và không còn phù họp với tư tưởng của các quy phạm pháp luật tương ứng của ngành luật hiến pháp thì các quy phạm pháp luật của các ngành luật cụ thể đó sẽ bị vô hiệu. Ví dụ minh hoạ rõ ràng nhất cho mối quan hệ này chính là giữa ngành luật hiến pháp và các ngành luật thủ tục, ví dụ ngành luật tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự.

Thứ ba, mỗi khi nội dung các quy phạm pháp luật của ngành luật hiến pháp thay đổi thì nội dung của các quy phạm pháp luật và các chế định của các ngành luật khác cũng phải thay đổi cho phù họp. Có thể nói nội dung của các quy phạm pháp luật của ngành luật hiến pháp tạo thành chính sách pháp luật cơ bản định hướng việc xây dựng các ngành luật cụ thể. Chính sách cơ bản đó thay đổi sẽ kéo theo yêu cầu sửa dải, bổ sung đối với các quy phạm pháp luật và chế định tương ứng của các ngành luật cụ thể.

Ví dụ, đối với ngành luật thương mại, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dần có quyền tự do kỉnh doanh theo quy định của pháp luật”. Đen Hiến pháp năm 2013, quyền này được quy định như sau: “Mọi người có quyền tự do kỉnh doanh trong những ngành nghề mà pháp ỉuật không cấm”. Như vậy, chính sách của nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh đã được cởi mở hơn rất nhiều. Các quy định của ngành luật thương mại giờ đây sẽ phải thể chế hoá tinh năm 1980 khi đó quy định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Hiến pháp năm 1992 ra đời đã quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. 

Đến Hiến pháp năm 2013, quyền này được quy định như sau: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, chính sách của nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh đã được cởi mở hơn rất nhiều. Các quy định của ngành luật thương mại giờ đây sẽ phải thể chế hoá tinh thần này và có những quy định cởi mở hơn, khuyến khích kinh doanh một cách hiệu quả hơn. Nhà nước giờ đây chỉ có quyền đặt ra những lĩnh vực bị cấm kinh doanh mà không có quyền hạn chế kinh doanh của người dân bên ngoài phạm vi các lĩnh vực cấm đó.

Một ví dụ khác là quyền bào chữa. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. BỊ cáo có the tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình".

Đến Hiến pháp năm 2013, quyền này đã được sửa đổi bởi khoản 4 Điều 31 như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa". Như vậy, quyền bào chữa của người dân đã được quy định rộng hơn rất nhiều so với trước đây, không những bị cáo mà bất cứ ai kể từ khi bị bắt, tạm giữ, tạm giam cho đến suốt quá trình tố tụng đều có quyền được bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa. Ngành luật tố tụng hình sự, với Bộ luật tố tụng hình sự ban hành năm 2015 đã phải thể chế hoá tư tưởng này.

Như vậy, có thể hình dung hệ thống pháp luật Việt Nam như một kim tự tháp lớn, trong đó có nhiều kim tự tháp nhỏ tương ứng với các ngành luật. Trong mỗi kim tự tháp nhỏ, các quy phạm pháp luật của ngành luật hiến pháp được đặt ở vị trí đỉnh tháp, thiết lập các nguyên tắc cơ bản định hình cấu trúc của kim tự tháp đó.

Lí do ngành luật hiến pháp có vị trí nền tảng và chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam là bởi vì đối tượng điều chỉnh của nó. Như đã đề cập, đối tượng điều chỉnh là nhân tố khách quan quyết định sự hình thành một ngành luật độc lập cũng như các đặc điểm riêng của ngành luật đó. Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hiến pháp là các quan hệ cơ bản nhất và quan trọng nhất trong xã hội, là những quan hệ nền tảng mà chỉ khi nào xác định được hướng điều chỉnh chúng thì mới xác định được hướng điều chỉnh các quan hệ cụ thế. Qua việc điều chỉnh các quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, ngành luật hiến pháp hình thành.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực lao động của Công ty Luật TNHH Everest

2- Vai trò của luật hiến pháp

[a] Kiềm chế quyền lực các cơ quan nhà nước

Làm việc trong các cơ quan nhà nước là những người nắm giữ chức vụ, quyền hạn ở các cấp bậc, phạm vi khác nhau và trực tiếp nắm giữ, thi hành quyền lực nhà nước. Trong khi đó, quyền lực nhà nước lại là một thứ quyền lực đặc biệt, là thứ quyền lực duy nhất có hiệu lực trên toàn bộ phạm vi lãnh thổ, được ban hành pháp luật để áp đặt ý chí lên mọi đối tượng trong xã hội và ý chí đó được bảo đảm thi hành bằng bộ máy cưỡng chế của nhà nước.

Quyền lực nhà nước cũng là cơ sở để người nắm giữ nó đoạt được những giá trị to lớn khác như tiền tài, danh vọng, các giá trị vật chất hoặc phi vật chất... Chính vì vậy, khi quyền lực được nắm giữ và thực thi bởi con người thì nó luôn có xu hướng tha hoá và bị lạm dụng. Sự tha hoá của người nắm giữ quyền lực tất yếu dẫn tới sự tha hoá của cơ quan nhà nước và bộ máy nhà nước, khi đó lợi ích chung mà nhà nước phải bảo vệ sẽ bị tổn hại trước sự xâm lấn của lợi ích cá nhân.

Luật hiến pháp hiện đại có nhiệm vụ kiềm chế sự tha hoá đó của quyền lực bằng việc đặt ra các “chuẩn mực” mà việc thực hiện quyền lực nhà nước, cho dù bởi bất kì chủ thể nào cũng phải tuân thủ. Nhìn vào các nhóm đối tượng điều chỉnh của ngành luật hiến pháp như đề cập ở phần trước, có thể thấy rõ điều đó. Qua việc điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội đầu tiên, ngành luật hiến pháp xác lập những giá trị trong từng lĩnh vực mà bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng phải lấy làm định hướng trong việc ban hành chính sách, pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, khi điều chỉnh lĩnh vực chính trị, ngành luật hiến pháp thiết lập nên những giá trị nền tảng mà việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam phải noi theo, ví dụ dân chủ, pháp quyền, tôn trọng quyền con người, bình đắng, đoàn kết giữa các dân tộc.

Qua việc điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội thứ hai, ngành luật hiến pháp ghi nhận những quyền cơ bản của người dân mà nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng không những không được vi phạm mà còn phải bảo đảm và bảo vệ. Qua việc điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội thứ ba, ngành luật hiến pháp thiết lập nên chỉnh thể bộ máy nhà nước mà trước tiên là định rõ vị trí, chức năng, phạm vi thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương cũng như nguyên tắc và cách thức hoạt động của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước, bảo đảm các cơ quan không có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để có thể hoạt động một cách hiệu quả.

[b] Bảo vệ các quyền cơ bản của người dân trước sự xâm phạm từ phía cơ quan công quyền và xã hội

Luật hiến pháp hiện đại có nhiệm vụ kiềm chế sự tha hoá đó của quyền lực bằng việc đặt ra các “chuẩn mực” mà việc thực hiện quyền lực nhà nước, cho dù bởi bất kì chủ thể nào cũng phải tuân thủ. Nhìn vào các nhóm đối tượng điều chỉnh của ngành luật hiến pháp như đề cập ở phần trước có thể thấy rõ điều đó. Qua việc điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội đầu tiên, ngành luật hiến pháp xác lập những giá trị trong từng lĩnh vực mà bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng phải lấy làm định hướng trong việc ban hành chính sách, pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể.

Đặc biệt, khi điều chỉnh lĩnh vực chính trị, ngành luật hiến pháp thiết lập nên những giá trị nền tảng mà việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam phải noi theo, ví dụ dân chủ, pháp quyền, tôn trọng quyền con người, bình đắng, đoàn kết giữa các dân tộc.

Qua việc điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội thứ hai, ngành luật hiến pháp ghi nhận những quyền cơ bản của người dân mà nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng không những không được vi phạm mà còn phải bảo đảm và bảo vệ. Qua việc điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội thứ ba, ngành luật hiến pháp thiết lập nên chỉnh thể bộ máy nhà nước mà trước tiển là định rõ vị trí, chức năng, phạm vi thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương cũng như nguyên tắc và cách thức hoạt động của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước, bảo đảm các cơ quan không có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để có thể hoạt động một cách hiệu quả.

Nói một cách ngắn gọn, ngành luật hiến pháp buộc việc thực thi quyền lực nhà nước tuân thủ những giá trị nhất định như dân chủ, bình đẳng, pháp quyền, định hướng xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người V.V.. Sự hiểu biết về ngành luật hiến pháp ở khía cạnh này có ý nghĩa thực tiễn cao đối với mọi đối tượng trong xã hội. Đối với cán bộ làm việc trong bộ máy nhà nước, sự hiểu biết ngành luật hiến pháp giúp họ nắm rõ cách thức vận hành của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, hiếu rõ phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước cũng như những giá trị mà các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và tuân thủ.

Họ cũng sẽ biết được cách thức tiến hành công việc vừa bảo đảm lợi ích của nhà nước, vừa tôn trọng ý chí và quyền lợi của người dân. Có thể nói không thể nắm giữ, thực thi nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước một cách có hiệu quả nếu không có sự hiểu biết về ngành luật hiến pháp.

Đối với người dân trong xã hội, nếu nắm được bản chất kiềm chế quyền lực của ngành luật hiến pháp sẽ có khả năng nhìn nhận và giải thích một cách thấu đáo những hiện tượng xảy ra trong đời sống chính trị. Hiểu biết sâu sắc về ngành luật hiến pháp cũng giúp người dân trở nên tự tin hơn trong một phần quan trọng trong hệ thống ngành luật hiến pháp là chế định về quyền cơ bản của người dân. Với chế định này, ngành luật hiến pháp xác lập phạm vi các quyền cơ bản mà người dân được hưởng, ví dụ quyền tự do kinh doanh, tự do ngôn luận, tự do đi lại, có luật sư bào chữa..

Tương ứng với các quyền đó, ngành luật hiến pháp ấn định cho nhà nước nói chung và tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói riêng nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Mỗi cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều phải thực hiện nghĩa vụ này một cách phù họp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Ngành luật hiến pháp cũng thiết lập các nguyên tắc làm tiêu chí cho việc thực hiện nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền cơ bản mà nếu vi phạm thì cơ quan nhà nước sẽ bị coi là vi hiến.

Có thể nói, ngành luật hiến pháp vừa là ngành luật của những người cai trị, vừa là ngành luật của những người mong mỏi bộ máy nhà nước phải hoạt động một cách đúng đắn, thực sự phục vụ nhân dân và phục vụ xã hội.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest 

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Vị trí, vai trò của ngành luật hiến pháp được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Vị trí, vai trò của ngành luật hiến pháp có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Vị trí, vai trò của Ngành luật hiến pháp

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.20432 sec| 994.57 kb